#071 | Áp dụng Án lệ điều chỉnh quan hệ hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng tư vấn quản lý dự án và quản lý xây dựng dự án. Bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo. Do đó, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại và lãi của khoản tiền bồi thường. Khoản tiền bồi thường đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận nhưng yêu cầu tiền lãi của tiền bồi thường không được chấp nhận trên cơ sở vận dụng Án lệ đã được Toà án nhân dân tối cao công bố. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, trường hợp doanh nghiệp vi phạm hợp đồng hay bị vi phạm hợp đồng xảy ra khá phổ biến và bồi thường thiệt hại là một trong những chế tài được áp dụng thường xuyên. Trong trường hợp doanh nghiệp đã yêu cầu bồi thường thiệt hại và có dự định yêu cầu lãi suất chậm thanh toán đối với khoản tiền bồi thường, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ Án lệ 09/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao về việc không chấp nhận lãi suất tính trên yêu cầu bồi thường thiệt hại trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Trong vụ việc trên, trên cơ sở Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại” và khoản 2 Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là khoản 2 Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015) theo đó “ Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” , Điều 315 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “ trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại ”, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ việc Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thông báo trước 56 ngày tương đương với 2 tháng nên thiệt hại mà Nguyên đơn được bồi thường sẽ tương đương với khoản lợi ích mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng trong khoảng thời gian đó theo h ợp đồng và làm tròn 62.500.000 VND ”. Ngoài yêu cầu bồi thường thiệt hại đã được chấp nhận ở trên, Nguyên đơn còn yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền lãi đối với khoản tiền bồi thường. Cụ thể, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn “ thanh toán bồi thường thiệt hại do quá hạn ”. Ở đây, Nguyên đơn cho rằng “ thời hạn cuối phải thanh toán các khoản bồi thường là ngày 28/03/2017 + 21 ngày = 18/04/2017, tỷ lệ bồi thường là 1%/ngày, thời gian quá hạn tính đến ngày Nguyên đơn nộp đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện : 14/03/2018 là 330 ngày ”. Từ đó, Nguyên đơn xác định số tiền thanh toán bồi thường thiệt hại do quá hạn 330 ngày là 750.258.240 VND x 1% x 330 ngày = 2.475.852.192 VND. Trong Bản làm rõ ngày 09/05/2018, Nguyên đơn khẳng định “ ngày mà quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn bị xâm phạm là 28/03/2017, thời hạn cuối phải thanh toán tiền bồi thường là 18/04/2017, tính đến ngày 14/03/2018 là 330 ngày là thời gian chậm trễ thanh toán bồi thường ”. Như vậy, bên cạnh yêu cầu bồi thường thiệt hại, Nguyên đơn còn yêu cầu tiền lãi chậm thanh toán trên khoản tiền bồi thường. Thực tế, Bị đơn phản đối yêu cầu này với nhận định “ không có cơ sở phát sinh nghĩa vụ thanh toán tiền bồi thường thiệt hại do quá hạn thanh toán với số tiền là 2.475.852.192 VND (750.258.240 VND x 1% x 330 ngày) theo yêu cầu của Nguyên đơn ”. Từ đó, vấn đề đặt ra là yêu cầu lãi chậm thanh toán trên khoản tiền bồi thường thiệt hại có được chấp nhận không? Theo Hội đồng Trọng tài, yêu cầu này là không có cơ sở chấp nhận dựa trên nội dung của Án lệ của Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể, “ Hội đồng Trọng tài xét thấy pháp luật hiện hành của Việt Nam không có quy định về lãi do chậm thanh toán tiền bồi thường. Bên cạnh đó, theo Án lệ số 09/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao, tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định. Do đó, Hội đồng Trọng tài xét thấy yêu cầu nêu trên của Nguyên đơn là không có cơ sở để được chấp nhận ”. Nội dung vừa nêu cho thấy Hội đồng Trọng tài đã vận dụng án lệ để giải quyết tranh chấp hợp đồng phát sinh giữa các bên. Thực tế, khả năng áp dụng Án lệ đã chính thức được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam và điển hình nhất là trong Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể, theo Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015, “ trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng ”. Ở đây, Án lệ được áp dụng khi “ quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng ” và “ không thể áp dụng tương tự pháp luật ”. Trong vụ việc trên, vấn đề tính lãi đối với tiền bồi thường không được quy định trong văn bản, không được các bên thoả thuận và cũng không có tập quán trong khi có Án lệ về chủ đề này. Vì vậy, việc Hội đồng Trọng tài áp dụng Án lệ để giải quyết tranh chấp là phù hợp với quy định. Với nội dung trên, chúng ta thấy không phải vấn đề nào phát sinh trong đời sống cũng có quy định, cũng có tập quán hay có thoả thuận điều chỉnh. Đối với trường hợp này, chúng ta không thể từ chối giải quyết trên cơ sở khoản 2 Điều 12 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng ”. Quy định này đương nhiên được áp dụng cho Tòa án cũng như không loại trừ khả năng áp dụng tương tự tại Trọng tài. Ở đây, trước việc không có quy định cụ thể để áp dụng mà không được từ chối giải quyết, cơ quan tài phán buộc phải có cơ chế xử lý và theo hướng áp dụng Án lệ là một cơ chế xử lý. Thực tế, việc áp dụng này được quy định trong văn bản chung là Bộ luật dân sự như nêu trên nên được áp dụng tại Toà án cũng như ngoài Toà án như tại Trọng tài. Hướng này là điểm mới được bổ sung trong Bộ luật dân sự năm 2015, hữu ích cho thực tiễn như chúng ta đã thấy thông qua vụ việc được nghiên cứu. Đó là điểm doanh nghiệp cần lưu ý đối với những vấn đề mà hợp đồng của doanh nghiệp chưa quy định, điều luật cụ thể chưa có để điều chỉnh nhưng điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhân lực vào việc tìm hiểu án lệ đã tồn tại để khai thác sao cho bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. *Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận.
#070 | Áp dụng tương tự pháp luật
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng hợp tác để triển khai một dự án. Công ty nước ngoài chuyển tiền cọc; phía công ty Việt Nam sử dụng tiền cọc và thực hiện một số công việc nêu trong thỏa thuận. Cuối cùng, dự án không diễn ra như mong muốn và hai bên chấm dứt hợp tác. Về hệ quả, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng chia sẻ tổn thất mà hai bên phải gánh chịu khi đầu tư vào dự án. Ở đây, phía công ty Việt Nam đã đưa ra các số liệu về tổn thất mà họ đã có và, để xác định tổn thất của công ty nước ngoài, Hội đồng Trọng tài đã phải “ áp dụng tương tự pháp luật ”. Bài học kinh nghiệm : Trong quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, việc một vấn đề phát sinh giữa các bên chưa có điều luật để áp dụng và chưa được dự báo trong hợp đồng khá phổ biến và vụ việc trên là một ví dụ. Ở đây, không có điều luật nào quy định cụ thể về xác định tổn thất giữa các bên trong hoàn cảnh nêu trên và hợp đồng giữa các bên cũng không có điều khoản nào dự báo về chủ đề này. Từ đó, chúng ta phải tìm hướng xử lý và một trong các công cụ để xử lý là “áp dụng tương tự pháp luật” được ghi nhận trong Bộ luật dân sự (được áp dụng cho cả quan hệ kinh doanh thương mại như cho vụ việc nêu trên). Theo khoản 1 Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 (kế thừa từ Bộ luật dân sự trước đây), “ trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự ”. Để hướng dẫn Tòa án vận dụng cơ chế này trong tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “ khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự ”. Quy định vừa nêu áp dụng cho tố tụng tại Tòa án, không có giá trị bắt buộc đối với tố tụng tại Trọng tài nhưng mang tính gợi mở cho việc áp dụng tương tự pháp luật và, thực tế trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài đã vận dụng cơ chế đó như chúng ta thấy ở phần dưới. Ở đây, theo Hội đồng Trọng tài, “ Bị đơn đã đầu tư vào việc thực hiện những công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc nhưng nay hợp đồng nguyên tắc không còn tiếp tục nữa, hợp đồng thuê lại tài sản mà Nguyên đơn và Bị đơn mong muốn không diễn ra như dự kiến. Do đó, Bị đơn có tổn thất khi hợp đồng nguyên tắc không được duy trì, hợp đồng thuê lại tài sản không diễn ra như mong muốn. Nói cách khác, Bị đơn đầu tư vào việc thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc để tiến hành ký hợp đồng cho thuê lại tài sản với Nguyên đơn nhưng hợp đồng cho thuê lại này không thể xảy ra nên Bị đơn có tổn thất ”. Đối với Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài xác định “ Nguyên đơn cũng đầu tư vào việc thực hiện công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc bằng cách chuyển cho Bị đơn một khoản tiền là tiền đặt cọc, để cho Bị đơn sử dụng khoản tiền đặt cọc mà Bị đơn không phải trả lãi cho Nguyên đơn nên đây cũng là tổn hại của Nguyên đơn khi chấm dứt hợp đồng ”. Về mức tổn thất của Nguyên đơn, Hội đồng trọng tài theo hướng “ Nguyên đơn chuyển tiền cọc cho Bị đơn sử dụng mà Bị đơn không phải trả lãi cho Nguyên đơn và nay việc thuê lại mặt bằng không thể diễn ra như mong muốn của các Bên nên đây cũng là tổn thất đối với Nguyên đơn (do Nguyên đơn chuyển tiền cọc cho Bị đơn nên Nguyên đơn đã mất khả năng khai thác, sử dụng khoản tiền đã chuyển và đó chính là tổn thất của Nguyên đơn) ". Trong pháp luật Việt Nam, tổn thất phát sinh từ việc mất khả năng khai thác một khoản tiền được tính theo lãi chậm trả. Chẳng hạn, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, đối với “ các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước ” thì thiệt hại là “ khoản lãi ” và “ Trường hợp các khoản tiền đó không phải là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp không có thỏa thuận theo quy định của Bộ luật dân sự” (khoản 4 Điều 23). Áp dụng tương tự quy định của pháp luật được quy định tại Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên, ở đây Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn 12.666.780.000 VND từ năm 2016 đến nay là khoảng 2 năm nên khoản tổn thất của Nguyên đơn xuất phát từ việc chuyển tiền cọc cho Bị đơn ước tính là tiền lãi tương ứng với thời gian 02 năm của khoản tiền cọc Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn: 2 năm x 10%/năm (mức lãi khi không có thỏa thuận theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015) x 12.666.780.000 VN D = 2.533.356.000 VN D ”. Ở đây, quy định đã tồn tại trong văn bản là quy định trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước điều chỉnh khoản tiền của người dân nộp vào ngân sách nhà nước (người dân không sử dụng được tiền này và thông thường Nhà nước khai thác khoản tiền này phục vụ cho công việc của mình). Còn hoàn cảnh mà chúng ta đang xem xét là việc một bên giao tiền cho bên kia nên bên giao tiền không có khả năng khai thác khoản tiền của mình nữa và bên nhận tiền khai thác khoản tiền này phục vụ công việc của họ. Hoàn cảnh vừa nêu trong vụ việc được nghiên cứu (chưa có quy định cụ thể để áp dụng và chưa được các bên thỏa thuận hướng giải quyết) có tính chất tương tự với hoàn cảnh được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nêu trên quy định nên việc Hội đồng Trọng tài áp dụng tương tự pháp luật là phù hợp với quy định. Đối với doanh nghiệp, tốt hơn hết là doanh nghiệp cùng đối tác dự báo hết các vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng và đưa ra hướng giải quyết cụ thể cho các vấn đề đó trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu đã có một hợp đồng và một vấn đề chưa có điều luật áp dụng và hợp đồng chưa dự báo như chúng ta thấy trong vụ việc nêu trên, “ áp dụng tương tự pháp luật ” là công cụ hiệu quả để giải quyết bất đồng giữa các bên. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết được có quy định điều chỉnh hoàn cảnh tương tự như hoàn cảnh mà doanh nghiệp đang gặp phải và, để có được điều đó, doanh nghiệp cần đầu tư về kiến thức pháp lý thì mới có thể khai thác hiệu quả cơ chế “ áp dụng tương tự pháp luật ”.
#069 | Áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Ngày 06/11/2015, Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị. Nguyên đơn đã tiến hành giao hàng năm 2016 nhưng, cho tới thời điểm tháng 08/2017, Bị đơn mới chỉ thanh toán cho Nguyên đơn một phần tiền hàng, chưa thanh toán đợt 3 và đợt 4. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài đã không áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 mà áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 để giải quyết tranh chấp. Bài học kinh nghiệm : Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại chịu sự điều chỉnh của nhiều đạo luật khác nhau như Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật kinh doanh bất động sản… Trong các đạo luật này, Bộ luật dân sự là luật chung, có phạm vi điều chỉnh rất rộng (những vấn đề cơ bản của hợp đồng đều được Bộ luật dân sự điều chỉnh) nên doanh nghiệp cần có sự quan tâm thích đáng. Thực tế, Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 như thay đổi điều cấm của “pháp luật” bằng điều cấm của “luật”, hình thức “theo quy định của pháp luật” bằng hình thức “theo quy định của luật”, mức lãi trần từ 150% lãi suất cơ bản nâng thành 20%/năm… Nếu hợp đồng được xác lập sau ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực (tức từ ngày 01/01/2017), chúng ta không gặp khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật dân sự và, trong trường hợp như vừa nêu, Bộ luật dân sự năm 2015 được áp dụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp hợp đồng được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực nhưng có tranh chấp cần giải quyết sau ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực như trường hợp nêu trong tình tiết sự kiện. Vấn đề nêu trên đã được Bộ luật dân sự năm 2015 đề cập đến tại Điều 688 theo đó “ giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này ” (điểm b khoản 1). Với quy định vừa nêu, khả năng áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 cho giao dịch (hợp đồng) được xác lập trước ngày 01/01/2017 đã được ghi nhận nhưng với điều kiện. Cụ thể, thứ nhất , hợp đồng “ chưa được hoặc đang được thực hiện ”, “ nội dung phù hợp với quy định của ” Bộ luật dân sự năm 2015 và “hình thức” của hợp đồng cũng “phù hợp với quy định của Bộ luật này”. Ở vụ việc trên, hợp đồng có tranh chấp được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực và vấn đề đặt ra là hợp đồng này có đáp ứng các điều kiện áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên không? Theo Hội đồng Trọng tài, “ thời điểm Nguyên đơn và Bị đơn giao kết hợp đồng và Phụ lục hợp đồng ngày 06/11/2015 là thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 còn hiệu lực ”, “ Tính đến thời điểm Bộ luật dân sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực (tức 01/01/2017) hợp đồng giữa các Bên được thực hiện một phần: Nguyên đơn bàn giao, nghiệm thu máy móc, thiết bị; Bị đơn thanh toán đợt 1 và đợt 2. Sau ngày 01/01/2017 cho tới nay, Bị đơn vẫn chưa thanh toán đợt 3 và đợt 4 cho Nguyên đơn. Hội đồng Trọng tài xác định đến ngày Bộ luật dân sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực, hợp đồng này đang được thực hiện, chưa thực hiện xong ”. Với nội dung vừa nêu, chúng ta thấy hợp đồng đang được thực hiện, chưa chấm dứt nên điều kiện đầu tiên nêu trên để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 đã được đáp ứng. Đối với Hội đồng Trọng tài, hợp đồng còn có hình thức và nội dung phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 nên đáp ứng các điều kiện còn lại để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên. Ở đây, “ về hình thức, Hội đồng Trọng tài thấy rằng hợp đồng phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Bởi lẽ, hợp đồng được lập bằng văn bản giữa người có thẩm quyền của Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không buộc phải công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký nên hoàn toàn phù hợp với các quy định về hình thức của hợp đồng ” và “ về nội dung của h ợp đồng, Hội đồng Trọng tài nhận thấy quan hệ hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn là quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Nội dung hợp đồng có các điều khoản quy định tại Điều 398 Bộ luật dân sự năm 2015. Hơn nữa, nội dung của hợp đồng cũng phù hợp với các Điều luật từ 430 đến Điều 445 của Bộ luật dân sự năm 2015 (quy định về h ợp đồng mua bán tài sản trong Chương thứ XVI: Một số hợp đồng thông dụng). Do vậy, nội dung của hợp đồng phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 ”. Như vậy, hợp đồng có tranh chấp được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực nhưng đáp ứng các điều kiện để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, như Hội đồng Trọng tài đã khẳng định, “ từ các phân tích trên đây, Hội đồng Trọng tài xác định h ợp đồng giữa các Bên là giao dịch dân sự có hình thức và nội dung phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, h ợp đồng này đang được thực hiện nên có cơ sở để áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để xem xét, giải quyết Vụ tranh chấp ”. Ở đây, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015: Áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 cho cả hợp đồng được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Đây là điểm doanh nghiệp cần lưu ý khi đã xác lập giao dịch trước ngày 01/01/2017 nhưng có tranh chấp cần giải quyết sau thời điểm này. Thực tế, việc áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015 như nêu trên có giá trị thực tiễn rất lớn mà doanh nghiệp nên biết vì Bộ luật dân sự năm 2015 có nhiều điểm thay đổi tích cực so với Bộ luật dân sự trước đây. Chẳng hạn, trong vụ việc trên, hợp đồng có nêu giá bằng ngoại tệ nên thuộc trường hợp vô hiệu khi áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 (do vi phạm điều cấm của “pháp luật” xuất phát từ vi phạm Pháp lệnh ngoại hối) nhưng hợp đồng này lại hợp pháp khi áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 (Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của “luật” trong khi Pháp lệnh ngoại hối không là “luật” mà là văn bản dưới luật). Thực tế, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng hợp đồng có hiệu lực với nhận xét “việc quy đổi giá trị của hợp đồng từ tiền USD ra tiền VND trong phụ lục hợp đồng số 01 không phù hợp với quy định tại Pháp lệnh ngoại hối năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) của Ủy ban thường vụ Quốc hội và cũng không phù hợp với Thông tư số 32/2013 của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, theo Điều 4 (Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật) Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, pháp lệnh và thông tư không phải là văn bản luật. Do vậy, Phụ lục hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng có hiệu lực pháp luật”.
#068 | Chủ thể của hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn - Bên bán) xác lập hợp đồng mua bán thép với Doanh nghiệp tư nhân S (Bị đơn - Bên mua). Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định chủ thể chịu trách nhiệm là chủ doanh nghiệp tư nhân. Bài học kinh nghiệm : Nhìn một cách tổng thể, Việt Nam ghi nhận hai loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Hiện nay doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân là doanh nghiệp tư nhân và có những điểm rất đặc thù liên quan tới chủ thể. Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” (quy định này được nhắc lại tại khoản 4 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo đó “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”) và, theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, “đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi về người đại diện theo hướng ghi nhận đại diện cá nhân và đồng đại diện vì quy định “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” (khoản 1 Điều 134). Trên cơ sở Bộ luật dân sự, chúng ta hiểu rằng người đại diện và người được đại diện là hai chủ thể khác nhau, người đại diện nhân danh và vì lợi ích “của người khác”. Kết hợp với quy định về doanh nghiệp tư nhân nêu trên, chúng ta có thể suy luận rằng chủ doanh nghiệp tư nhân (người đại diện) và doanh nghiệp tư nhân (người được đại diện) là hai chủ thể khác nhau và quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập (chủ doanh nghiệp tư nhân) không là quyền, nghĩa vụ của người đại diện mà là của người được đại diện (tức doanh nghiệp tư nhân) trên cơ sở khoản 4 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập” và “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện”. Tuy nhiên, cách nhìn nhận trên không thể hiện đúng thực tế hiện nay về doanh nghiệp tư nhân và vụ việc trên cho phép làm rõ chủ thể chịu trách nhiệm về giao dịch do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập. Ở đây, hợp đồng được xác lập giữa Bên bán và doanh nghiệp tư nhân thông qua chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là Bên mua. Từ hợp đồng này, Bên mua phải trả tiền cho Bên bán và thực tế Bên bán khởi kiện yêu cầu trả tiền hàng và lãi chậm thanh toán. Ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của Bên mua? Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài theo hướng “buộc Bị đơn là Bà X, Chủ doanh nghiệp tư nhân S phải thanh toán số tiền hàng còn thiếu là 1.535.477.000 VND cho Nguyên đơn là Công ty T”. Điều đó có nghĩa là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán chính là “chủ doanh nghiệp tư nhân”, chính là cá nhân “Bà X”. Trong vụ việc này, Hội đồng Trọng tài xác định chủ doanh nghiệp tư nhân (cá nhân bà X) là người phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng, trong vụ việc khác, Hội đồng Trọng tài xác định cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền phát sinh từ hợp đồng. Cụ thể, trong tranh chấp về hợp đồng mua bán được xác lập giữa một công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên mua) và một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có ông C là chủ doanh nghiệp (Nguyên đơn - Bên bán), Hội đồng Trọng tài đã quyết định “chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C đối với Bị đơn. Cụ thể: Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn (…)”. Ở vụ việc này, người thụ hưởng là Nguyên đơn và Nguyên đơn chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân: Theo Hội đồng Trọng tài, “xác định Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C - là Nguyên đơn trong Vụ tranh chấp”. Như vậy, hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân thông qua người đại diện là chủ doanh nghiệp tư nhân nhưng chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng lại là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp tư nhân. Hướng giải quyết này tương thích với các quy định trong Luật Doanh nghiệp như quy định theo đó “doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005, khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Với những quy định trong Luật Doanh nghiệp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân như nghĩa vụ phát sinh đối với chính cá nhân chủ doanh nghiệp [1] . Nói một cách hình tượng, chúng ta có thể cho rằng doanh nghiệp tư nhân chỉ là chiếc áo mà cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân sử dụng nên chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Từ những thông tin trên, đối tác của doanh nghiệp tư nhân cần biết rằng người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp như Hội đồng Trọng tài đã phán xét ở trên và, khi có tranh chấp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “Chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”. [1] Quan điểm này được thể hiện rõ tại khoản 2 Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo đó “sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác” (khoản 1 Điều 187 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
#067 | Xác định bản chất của quan hệ hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn) ký với Công ty S (Bị đơn) một hợp đồng liên kết kinh tế. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp Hội đồng Trọng tài xác định đây là hợp đồng thuê tài sản. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, thường xuyên gặp trường hợp các bên xác lập một hợp đồng và cho hợp đồng một cái tên thể hiện bản chất của một quan hệ hợp đồng nhất định nhưng sau đó cơ quan tài phán lại xác định hợp đồng có bản chất khác. Trong vụ việc trên, hai Bên xác lập hợp đồng liên kết kinh tế với thời hạn 15 năm. Công ty T đưa một khu nhà vào dự án liên kết kinh doanh nhạc cụ thiết bị âm thanh ánh sáng với Công ty S và được hưởng một khoản lợi nhuận cố định hàng tháng. Đây là hợp đồng liên kết kinh tế hay hợp đồng thuê tài sản? Theo Hội đồng Trọng tài, hợp đồng trên không là hợp đồng liên kết kinh tế vì “có những nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng liên kết kinh tế” như “không quy định rõ về tỷ lệ góp vốn của các bên”, “không thể hiện rõ về tính hợp pháp của đối tượng góp vốn của các bên” vì “chưa phát sinh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở”, “không quy định rõ về mức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ vốn góp mà các bên hợp tác liên kết kinh tế đã đóng góp” và bên giao tài sản “phải đóng các khoản thuế nhà đất”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “nhìn lại quá trình quan hệ hợp tác giữa hai bên bắt đầu từ hợp đồng liên kết kinh tế đầu tiên ký ngày 07/11/2000 cho đến hiện tại Hợp đồng liên kết kinh tế số 02 ký ngày 25/07/2004 hiện đang trực tiếp điều chỉnh quan hệ giữa hai bên. Có thể nhận thấy rằng trong suốt thời gian từ năm 2000 đến nay, về bản chất quan hệ giữa T và S là mối quan hệ giữa Chủ nhà và Bên thuê nhà trong một hợp đồng thuê nhà đất”. Do đó, “mối quan hệ hợp đồng giữa hai bên thực chất là mối quan hệ của giữa Chủ nhà và Bên thuê nhà của một hợp đồng thuê nhà đất”. Như vậy, Hội đồng Trọng tài tự xác định lại quan hệ hợp đồng giữa các Bên: Các bên xác định là quan hệ hợp đồng liên kết kinh tế nhưng Hội đồng Trọng tài xác định là hợp đồng thuê tài sản (nhà đất). Thực ra, việc Hội đồng Trọng tài tự xác định đúng bản chất của quan hệ hợp đồng là cần thiết để xác định đúng quan hệ giữa các bên và việc này thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài như một Phán quyết trọng tài năm 2014 của Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC đã khẳng định “việc xác định bản chất quan hệ tranh chấp thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài và việc này dựa vào những yếu tố khách quan của quan hệ có tranh chấp, không phụ thuộc vào quan điểm cá nhân của các Bên”. Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài xác định quan hệ giữa các Bên là quan hệ hợp đồng thuê vì thực chất Bên nhận tài sản tự chủ trong việc khai thác tài sản và bên giao tài sản được nhận một khoản tiền hàng tháng trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, quan hệ này tương thích với hợp đồng thuê tài sản như Điều 480 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 472 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Hợp đồng thuê tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê”. Trong thực tế, đối với hoàn cảnh tương tự, Tòa án nhân dân tối cao cũng xác định là quan hệ cho thuê tài sản nên áp dụng các quy định tương ứng về thuê tài sản. Việc cơ quan tài phán xác định lại bản chất quan hệ hợp đồng khác với bản chất bề ngoài của hợp đồng không hiếm xảy ra và việc xác định chính xác bản chất quan hệ hợp đồng là cần thiết vì mỗi loại hợp đồng có những quy định tương ứng nhất định như hợp đồng mua bán có quy định riêng về mua bán và hợp đồng thuê có quy định riêng về hợp đồng thuê tài sản. Do đó, các bên trong giao dịch cần xác định rõ bản chất quan hệ hợp đồng phù hợp với thực tế hoàn cảnh của mình để biết được quyền và nghĩa vụ tương ứng. Trong trường hợp các bên đưa ra một tiêu đề của hợp đồng với bản chất rõ nhưng nội dung lại không thể hiện đúng bản chất của quan hệ hợp đồng thì cơ quan tài phán sẽ xác định lại như Hội đồng Trọng tài đã làm để áp dụng các quy định tương ứng.
#066 | Chủ thể chịu hệ quả từ việc xác lập hợp đồng thay thế
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Tây Ban Nha (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cá. Bị đơn sau đó tuyên bố chấm dứt hợp đồng và Nguyên đơn đã phải mua hàng của đối tác khác để thay thế. Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định Bị đơn phải gánh chịu hệ quả từ việc Nguyên đơn xác lập hợp đồng thay thế. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế không hiếm khi gặp trường hợp một bên không thực hiện đúng hợp đồng và bên còn lại phải ký hợp đồng với đối tác khác để thay thế. Việc xác lập hợp đồng thay thế này có thể dẫn tới giá thành cao hơn nên câu hỏi đặt ra là ai phải gánh chịu những hệ quả bất lợi từ việc xác lập hợp đồng thay thế. Trong vụ việc trên, Bên bán đã tuyên bố chấm dứt hợp đồng và Bên mua đã mua hàng thay thế từ các nhà cung cấp khác. Theo phía Bên mua, Nguyên đơn phải mua hàng thay thế từ các nhà cung cấp khác với giá cao hơn giá của hợp đồng, gây ra thiệt hại cho Nguyên đơn do chênh lệch giá là 30.819,60 USD và Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn khoản thiệt hại này. Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán một lần toàn bộ khoản tiền bồi thường thiệt hại nói trên cùng với tiền lãi chậm thanh toán phát sinh trên số nợ gốc. Yêu cầu này không được phía Bị đơn chấp nhận. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xét rằng: Thứ nhất , “không chấp nhận lập luận của Bị đơn cho rằng, bằng việc ký các hợp đồng mua hàng thay thế của các nhà cung cấp khác, Nguyên đơn đã đơn phương hủy hợp đồng OPE 05 và OPE 06. Hội đồng Trọng tài chỉ ra rằng không có bằng chứng nào cho thấy Nguyên đơn tuyên bố hủy hai hợp đồng này. Ký các hợp đồng mua hàng thay thế từ các nhà cung cấp khác chỉ diễn ra sau khi Bị đơn hủy hợp đồng”; th ứ hai , “chủng loại hàng hóa thay thế mà Nguyên đơn mua của các nhà cung cấp khác không có gì khác với chủng loại hàng mua của Bị đơn theo hợp đồng OPE 05 và OPE 06. Hội đồng Trọng tài cũng thấy rằng quy cách đóng gói của các nhà cung cấp có khác nhau, nhưng Bị đơn không đưa ra được bằng chứng và con số cụ thể trong tổng số 30.819,60 USD chênh lệch giá thì chênh lệch về đóng gói là bao nhiêu, do vậy Hội đồng Trọng tài không có căn cứ để tính toán tách bạch mà phải chấp nhận tổng số thiệt hại do chênh lệch giá mà Nguyên đơn đã phải trả cho các nhà cung cấp khác”. Thực ra, trước việc một bên không thực hiện đúng hợp đồng, pháp luật dân sự cũng như pháp Luật Thương mại năm 2005 cho phép bên bị vi phạm được xác lập hợp đồng thay thế. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2015, “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó”. Về phía mình, sau khi khẳng định tại khoản 2 Điều 297 Luật Thương mại năm 2005 rằng “trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm”, Luật Thương mại năm 2005 quy định tại khoản 3 điều luật vừa nêu rằng “trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng”. Trong vụ việc trên, hợp đồng được giao kết hợp pháp nên “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên” (Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015) nên việc Bên bán tuyên bố chấm dứt hợp đồng là không thực hiện đúng hợp đồng, vi phạm hợp đồng. Vì vậy, Bên mua được tiến hành xác lập hợp đồng thay thế. Về hệ quả của việc xác lập giao dịch thay thế, quy định nêu trên trong Bộ luật dân sự theo hướng bên bị vi phạm được quyền “yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại”. Luật Thương mại năm 2005 cũng theo hướng này khi quy định tại khoản 3 Điều 297 rằng “bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có”. Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài theo hướng “chấp nhận tổng số thiệt hại do chênh lệch giá mà Nguyên đơn đã phải trả cho các nhà cung cấp khác”. Như vậy, khi thực hiện hợp đồng đã được xác lập hợp pháp, doanh nghiệp lưu ý rằng việc không thực hiện đúng hợp đồng có thể dẫn tới bên kia của hợp đồng xác lập hợp đồng thay thế với đối tác khác và doanh nghiệp có vi phạm phải chịu hệ quả từ việc xác lập hợp đồng thay thế này.
#065 | Áp dụng chế tài huỷ bỏ hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG)
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) có ký hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, các bên thoả thuận áp dụng CISG. Thực tế, Hội đồng Trọng tài áp dụng Công ước này để huỷ bỏ hợp đồng xuất phát từ việc Bị đơn (Bên bán) vi phạm hợp đồng. Bài học kinh nghiệm : CISG là một văn bản có rất nhiều quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong đó có các quy định về chế tài huỷ bỏ hợp đồng do có vi phạm. Trong vụ việc trên, hợp đồng có tranh chấp là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và Bị đơn đã vi phạm hợp đồng, vi phạm này là cơ bản nên Hội đồng Trọng tài cho huỷ bỏ hợp đồng và giải quyết hệ quả của việc huỷ bỏ. Cụ thể: Hội đồng Trọng tài đã xác định có việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn. Ở đây, theo Hội đồng Trọng tài, “ thời hạn giao hàng của các hợp đồng này đều nằm trong thời hạn tháng 03/2018. Tại Bản tự bảo vệ của Bị đơn ngày 27/06/2018 và Bản luận cứ của Luật sư Bị đơn ngày 04/08/2018 đều thừa nhận tất cả các hợp đồng này Bị đơn vi phạm thời hạn giao hàng. Thời gian vi phạm mà Bị đơn thừa nhận dao động từ 12 ngày đến 29 ngày. Như vậy có cơ sở để kết luận rằng Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng đúng thời hạn mà các Bên đã thỏa thuận ”. Tiếp theo, Hội đồng Trọng tài xem xét tính nghiêm trọng của việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (thường được nêu là vi phạm cơ bản hay vi phạm chủ yếu). Cụ thể, sau khi viện dẫn Điều 25 CISG theo đó “một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự” , Hội đồng Trọng tài đã xác định “mặt hàng cao su là mặt hàng mang tính thời vụ, nên thời hạn giao hàng là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo quyền và lợi ích của bên mua. Xem xét các lập luận kèm theo biểu đồ về biến động giá mà Bị đơn cung cấp trong giai đoạn từ khi ký kết hợp đồng cho đến khi Nguyên đơn thông báo chính thức chấm dứt hợp đồng thì thấy: Giá cao su ở thị trường trong nước và Trung Quốc (thị trường của Nguyên đơn) giảm rất mạnh. Điều đó cho thấy tính thời vụ của mặt hàng này cũng như sự biến động của thị trường ảnh hưởng rất lớn đến giá cả của cao su. Do vậy việc chậm giao hàng của Bị đơn dẫn đến thiệt hại cho Nguyên đơn khi giá cao su đã giảm mạnh so với thời điểm thỏa thuận giao hàng trong hợp đồng. Việc không giao hàng đúng thời hạn của Bị đơn trong trường hợp này làm cho Nguyên đơn không đạt được những lợi ích mà Nguyên đơn đã mong đợi khi giao kết hợp đồng với Bị đơn, nhất là trong hoàn cảnh mặt hàng mua bán giữa các bên có tính thời vụ, giá cả biến động mạnh tại mỗi thời điểm khác nhau. Từ những phân tích trên cho thấy Bị đơn đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng đối với Nguyên đơn”. Sau khi xác định có vi phạm cơ bản (vi phạm chủ yếu) nghĩa vụ hợp đồng của Bị đơn (Bên bán), Hội đồng Trọng tài đã áp dụng chế tài huỷ bỏ hợp đồng. Ở đây, sau khi viện dẫn điểm a khoản 1 Điều 49 CISG theo đó người mua có quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng “ Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm cơ bản hợp đồng ”, Hội đồng Trọng tài đã “ xét thấy rằng việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng của Nguyên đơn theo văn bản ngày 29/05/2017 là có cơ sở pháp lý nên chấp nhận ” để từ đó xác định “ việc đòi lại khoản tiền đã trả trước của các hợp đồng số 23, hợp đồng số 24, hợp đồng số 25, hợp đồng số 26, hợp đồng số 27 là phù hợp với quy định của pháp luật ”. Các nội dung trên cho thấy Hội đồng Trọng tài đã áp dụng CISG mà các bên đã thoả thuận áp dụng trong đó có chế tài huỷ bỏ hợp đồng do có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (ở đây là vi phạm thời hạn giao hàng). Thực tế, các quy định về huỷ bỏ hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong CISG khá tương đồng với Luật Thương mại hiện hành Việt Nam theo đó “ chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng ” (khoản 1 Điều 312). Tuy nhiên, việc áp dụng CISG như nêu trên cho thấy khả năng hội nhập cao của các bên và của Hội đồng Trọng tài, điều rất đáng lưu ý cho doanh nghiệp trong giao lưu quốc tế và cần được khuyến khích.
#064 | Điều kiện hủy bỏ hợp đồng: Phải có vi phạm cơ bản (nghiêm trọng)
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hai hợp đồng mua bán với Công ty Indonesia (Bị đơn - Bên bán). Bên mua đã thanh toán nhưng sau đó yêu cầu hủy hợp đồng để nhận lại tiền và yêu cầu này đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận do Bên bán có vi phạm cơ bản hợp đồng. Bài học kinh nghiệm : Theo Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015, “cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” và “Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Tuy nhiên, không hiếm trường hợp một bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng để không chịu sự ràng buộc của hợp đồng nữa trên cơ sở vi phạm của bên kia. Yêu cầu hủy bỏ này có được chấp nhận không? Trong vụ việc trên, Bên mua thanh toán 20% giá trị hợp đồng cho Bên bán. Sau đó, Bên bán thông báo cho Bên mua hàng đã đến cảng Cát Lái và yêu cầu Bên mua chuyển cho bên bán số tiền còn lại. Bên mua tiến hành thủ tục nhập khẩu lô hàng và yêu cầu Công ty F kiểm định chất lượng hàng hóa nhập khẩu nhằm hoàn tất thủ tục thông quan và Công ty F thông báo kết quả phân tích chất lượng hàng hóa không đủ điều kiện nhập khẩu. Trong Đơn khởi kiện, Nguyên đơn đã yêu cầu hủy bỏ hợp đồng và, theo Hội đồng Trọng tài, “Bị đơn đã vi phạm điều khoản chất lượng hàng hóa”, “Bên bán đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là giao hàng không đạt chất lượng. Cụ thể, theo Thông báo kết quả kiểm tra Nhà nước, lô hàng không đạt chất lượng nhập khẩu”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “vi phạm của Bên bán được coi là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” vì “khi hàng không đạt chất lượng nhập khẩu thì Bên mua không đạt được mục đích trong việc giao kết hợp đồng nhập khẩu”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài kết luận “yêu cầu của Nguyên đơn là có cơ sở để được chấp nhận” và theo hướng “do hợp đồng đã bị hủy nên Bên mua (Nguyên đơn) được quyền yêu cầu Bên bán (Bị đơn) hoàn trả những gì Bên mua đã thanh toán cho Bên bán nên yêu cầu trên của Nguyên đơn (Bên mua) là có cơ sở được chấp nhận ở mức 95.800 USD tương đương với 1.995.035.000 VND”. Việc Bên bán vi phạm hợp đồng đã được thể hiện thông qua kết quả giám định. Tuy nhiên, không phải vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn tới hủy bỏ hợp đồng. Theo khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, “chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định tương ứng nhưng với thuật ngữ “vi phạm nghiệm trọng” tại khoản 1 Điều 423 theo đó “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây: a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận; b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng; c) Trường hợp khác do luật quy định”. Ở đây, có hai cơ sở để hủy bỏ hợp đồng xuất phát từ vi phạm của một bên: Hoặc là các bên đã có thỏa thuận về việc hủy bỏ, hoặc là một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (vi phạm nghiêm trọng). Trong vụ việc này, Hội đồng Trọng tài khẳng định “trong hợp đồng, các bên không có thỏa thuận hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”. Do đó, để hủy bỏ hợp đồng, cần xác định được vi phạm của Bên bán là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Theo khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, “vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Khái niệm này tương thích với “vi phạm nghiêm trọng” tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài xác định vi phạm của Bên bán được coi là “vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” trên cơ sở “khi hàng không đạt chất lượng nhập khẩu thì Bên mua không đạt được mục đích trong việc giao kết hợp đồng nhập khẩu”. Hiện nay, không có hướng dẫn cụ thể về việc xác định vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nên việc xác định vi phạm của một bên có là vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thuộc thẩm quyền của cơ quan tài phán (và ở đây là Hội đồng Trọng tài). Thực ra, không hiếm trường hợp Hội đồng Trọng tài xác định có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nên chấp nhận hủy bỏ hợp đồng. Chẳng hạn, trong một Phán quyết trọng tài khác về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu (HĐNK) giữa Công ty LH và Công ty C, Hội đồng Trọng tài xác định “có cơ sở để cho rằng, Công ty LH đã không thực hiện đúng điều khoản thanh toán và giao hàng như đã thỏa thuận tại Điều 2 và Điều 5 của HĐNK. Đây chính là nguyên nhân làm cho HĐNK giữa 3 bên đã không thể tiếp tục thực hiện được và là vi phạm nghĩa vụ cơ bản của HĐNK. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, Công ty C tuyên bố hủy HĐNK kể từ ngày 05/09/2012 tại Thông báo số 01.2012 ngày 27/08/2012 là có cơ sở” [1] . Như vậy, hợp đồng được giao kết hợp pháp có thể bị hủy bỏ khi một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản hợp đồng. Từ việc hủy bỏ, các bên không còn chịu ràng buộc của hợp đồng nữa và nếu đã thực hiện thì các bên được nhận lại những lợi ích trên cơ sở khoản 2 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 về “Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng” theo đó “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng”. Điều đó cho thấy việc hủy bỏ hợp đồng là rất nghiêm trọng nên hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ trong những điều kiện nhất định: Khi các bên không có thỏa thuận về hủy bỏ hợp đồng thì, theo Luật Thương mại năm 2005, hợp đồng chỉ có thể bị hủy bỏ khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Đây là những điểm mà doanh nghiệp cần biết khi tiến hành hợp đồng với đối tác.
#063 | Điều kiện hủy bỏ hợp đồng: Phải có vi phạm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Hà Lan (Bị đơn - Bên bán). Sau đó, các Bên có tranh chấp xuất phát từ việc Bên mua cho rằng Bên bán giao hàng không đúng chủng loại. Hội đồng Trọng tài theo hướng không chấp nhận yêu cầu hủy hợp đồng do không có vi phạm. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia của hợp đồng vi phạm hợp đồng và yêu cầu hủy bỏ hợp đồng. Trong điều kiện nào, yêu cầu này có được chấp nhận? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa số 1661 và hợp đồng số 1663. Ngày 31/05/2013, toàn bộ 30 công-ten-nơ hàng về đến cảng Hải Phòng. Sau khi bốc dỡ hàng để thực hiện kiểm dịch và mở tờ khai hải quan điện tử vào ngày 03/06/2013, Nguyên đơn cho rằng hàng bị giao sai chủng loại so với hợp đồng và yêu cầu chấm dứt nghĩa vụ thanh toán. Sau khi xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các Bên là pháp luật Việt Nam [1] , Hội đồng Trọng tài cho rằng “thông qua các chứng cứ trong hồ sơ cũng như các trình bày của Nguyên đơn, Nguyên đơn đã thực hiện thanh toán cho hai lô hàng bằng L/C qua Ngân hàng. Nguyên đơn đã không thực hiện quyền từ chối nhận hàng nếu lô hàng sai chủng loại, mà trên thực tế đã tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ toàn bộ lô hàng về kho bãi của mình. Đồng thời, trong khi chưa đạt được một thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với người có thẩm quyền của Bị đơn về phương thức giải quyết lô hàng có tranh chấp, Nguyên đơn đã đơn phương chỉ định tổ chức giám định lô hàng trong tình trạng hàng hóa đã bị bốc dỡ, không nguyên kiện. Do đó, không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng là gỗ Bạch Dương theo hai hợp đồng số 1661 và 1663. Từ các căn cứ trên, Hội đồng Trọng tài xét thấy chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng. Do vậy, các yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc hủy bỏ hai hợp đồng 1661 và 1663 và chấm dứt nghĩa vụ thanh toán theo hai hợp đồng này là không có cơ sở chấp nhận”. Như vậy, hợp đồng không có tranh chấp không bị hủy bỏ và lý do chính dẫn tới kết quả này là vì “không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng”, “chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng”. Kết quả này có thể được lý giải như sau: Theo khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Để có thể áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng, điều kiện quan trọng là đã có hành vi “vi phạm” hợp đồng của một bên, tức “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này” (khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Ở đây, Hội đồng Trọng tài chưa có cơ sở để khẳng định có việc vi phạm hợp đồng từ phía Bên bán nên chưa có cơ sở để hủy bỏ hợp đồng. Hợp đồng sinh ra là để thực hiện nhằm đem lại cho các bên lợi ích mà họ mong đợi, nó sinh ra không phải để bị hủy bỏ vì khi hợp đồng bị hủy bỏ, theo Điều 314 Luật Thương mại năm 2005, “hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng”. Điều đó có nghĩa là việc hủy bỏ hợp đồng chỉ được áp dụng trong những trường hợp rất đặc biệt và hướng giải quyết nêu trên đã cho thấy không thể hủy bỏ hợp đồng một cách tùy tiện. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp có thể rút ra kinh nghiệm rằng hợp đồng của họ không thể bị hủy bỏ như một chế tài chống lại họ khi họ không vi phạm hợp đồng. Đồng thời, doanh nghiệp yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cũng biết rằng yêu cầu của họ sẽ không được chấp nhận nếu chưa đủ cơ sở để khẳng định đối tác của họ vi phạm hợp đồng. [1] “Căn cứ Điều 13 của hợp đồng 1661 và hợp đồng 1663, các Bên thỏa thuận luật pháp áp dụng là luật của Việt Nam. Căn cứ Khoản 1 Điều 22 Quy tắc của VIAC và Khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết Vụ tranh chấp”.