Trọng tài thương mại
#112 | Giá trị pháp lý của giám định tổn thất được bảo hiểm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Q (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) và Công ty B (Bị đơn - Bên bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm đã xảy ra nhưng các Bên không thống nhất về giá trị tổn thất nên đã phải tiến hành giám định. Giám định đơn phương của Bên bảo hiểm không được chấp nhận và giám định độc lập chỉ được chấp nhận một phần. Bài học kinh nghiệm : Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm khá phổ biến tại trọng tài. Trong thực tế, không hiếm trường hợp các bên tranh chấp với nhau về tổn thất được bảo hiểm và cần giám định. Câu hỏi đặt ra là kết quả giám định có giá trị ràng buộc không? Trong vụ việc trên, các Bên xác lập hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới theo đó Nguyên đơn mua bảo hiểm xe cơ giới với giá trị tham gia bảo hiểm là 1.245.000.000 VND, thời hạn bảo hiểm từ ngày 02/05/2012 đến ngày 01/05/2013. Ngày 18/07/2012, xe tải được bảo hiểm gặp tai nạn và tai nạn làm xe và toàn bộ hàng hóa bị thiệt hại. Ngày 10/08/2012, Bên bảo hiểm tiến hành lập Biên bản giám định thiệt hại xe cơ giới có sự chứng kiến của đại diện chủ xe. Về phía mình, Bên mua bảo hiểm yêu cầu Công ty HA để kiểm tra tình trạng xe. Sau đó hai Bên thống nhất cơ quan giám định độc lập thứ 3 là Trung tâm đăng kiểm H và cơ quan này kết luận: phần máy không phát hiện hư hỏng và các hệ thống tổng thành khác căn cứ theo giám định thiệt hại của Bên bảo hiểm. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định “có căn cứ xác định hai Bên tranh chấp đã đồng ý chọn Đăng kiểm H làm giám định viên độc lập có giá trị bắt buộc đối với hai Bên. Việc giám định được tiến hành 02 lần đều có sự chứng kiến của Nguyên đơn”. Về kết luận, “Tại thời điểm kiểm tra không phát hiện hư hỏng”, Hội đồng Trọng tài “công nhận kết quả giám định phần máy của cơ quan này”. Tuy nhiên, đối với các phần còn lại, theo Hội đồng Trọng tài, “Đăng Kiểm H lại công nhận kết quả giám định của Bị đơn là không khách quan và không phù hợp với thỏa thuận của Nguyên đơn và Bị đơn, trong khi lẽ ra Đăng Kiểm H phải giám định lại như các Bên đã thống nhất. Do đó, Hội đồng Trọng tài không công nhận kết luận này”. Phần trên cho thấy Hội đồng Trọng tài không chấp nhận kết quả giám định do một bên tiến hành khi các Bên có tranh chấp về tổn thất bảo hiểm. Hướng giải quyết như vậy là thuyết phục và doanh nghiệp nên biết việc này. Bởi lẽ, giám định do một bên tiến hành khó có thể đảm bảo tính khách quan. Còn đối với giám định độc lập do các Bên thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận kết quả giám định khi giám định độc lập tiến hành giám định như các Bên thỏa thuận. Ở đây, phần giám định này “ràng buộc các bên”. Tuy nhiên, có phần kết quả giám định không được chấp nhận do lấy lại kết quả của giám định của một bên trước đây là không tiến hành giám định như yêu cầu của các Bên. Hướng giải quyết này cũng thuyết phục vì để giám định có giá trị pháp lý thì tổ chức giám định phải tiến hành giám định một cách độc lập và khách quan. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp bảo hiểm cũng như doanh nghiệp mua bảo hiểm cần lưu ý là giám định mang tính đơn phương (tiến hành từ một phía) không có giá trị pháp lý nếu có tranh chấp và cần có giám định độc lập. Về phía giám định độc lập, việc giám định cũng cần được tiến hành một cách độc lập, khách quan nếu không làm như vậy thì kết luận giám định cũng không có giá trị ràng buộc như chúng ta đã thấy trong vụ việc nêu trên.
#111 | Xác định rủi ro được bảo hiểm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty vận tải T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm N (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Sau khi tàu của Nguyên đơn có sự cố, Bị đơn cho rằng sự cố này không được bảo hiểm nhưng Hội đồng Trọng tài theo hướng đây là rủi ro được bảo hiểm. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp Bên mua bảo hiểm cho rằng rủi ro đã xảy ra đối với mình và yêu cầu Bên bảo hiểm thực hiện trách nhiệm bảo hiểm nhưng Bên bán bảo hiểm từ chối trách nhiệm với lý do không đủ điều kiện để bảo hiểm. Trong vụ việc trên, Nguyên đơn (Người được bảo hiểm) và Bị đơn (Người bảo hiểm) đã ký kết hợp đồng bảo hiểm thân tàu TB 05. Người được bảo hiểm đồng ý tham gia và Người bảo hiểm đồng ý cung cấp bảo hiểm thân tàu (vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị) cho tàu TB 05 thuộc quyền quản lý của Người được bảo hiểm với điều kiện tàu phải đảm bảo an toàn đi biển theo đúng quy định hiện hành của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Luật lệ, Tập quán Hàng hải quốc tế. Điều 5 của hợp đồng còn quy định “Trong mọi trường hợp, Người được bảo hiểm phải có trách nhiệm đối với con tàu để tàu luôn đảm bảo an toàn đi biển và chuyên chở hàng hóa theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam”. Thực tế, tàu bị sự cố tại Philipines và Bên mua bảo hiểm yêu cầu bồi thường. Bên bảo hiểm (Bị đơn) cho rằng yêu cầu đòi bồi thường tổn thất của Nguyên đơn là không có căn cứ pháp lý vì chủ tàu TB 05/Người quản lý trên bờ, Thuyền trưởng, Thuyền phó hai đã thiếu mẫn cán trong việc chuẩn bị, kiểm tra, tu chỉnh hải đồ để đảm bảo có hải đồ thích hợp và được cập nhật và Bảng thủy triều, khiến cho tàu đã không đủ khả năng đi biển trước và khi bắt đầu hành trình đến cảng Zamboanga, Philippines. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài cho rằng “rủi ro mắc cạn của tàu TB 05 do gặp sóng to, gió lớn làm trôi neo là rủi ro được bảo hiểm thuộc trường hợp tổn thất hay tổn hại của đối tượng bảo hiểm gây ra bởi Hiểm họa của biển, sông, hồ hoặc vùng nước có thể hoạt động được quy định tại Mục I phần Tóm tắt các điều khoản bảo hiểm của Đơn bảo hiểm. Rủi ro này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật hàng hải Việt Nam cũng như khoản 1 Điều 55 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh”. Liên quan đến quan điểm của Bị đơn theo đó tàu đã không đủ khả năng đi biển trước và khi bắt đầu hành trình, Hội đồng Trọng tài xét rằng “lý lẽ này của Bị đơn là không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận bởi hiểm họa của biển, sông, hồ là sự kiện khách quan mà Nguyên đơn không thể lường trước được cho dù trước và khi bắt đầu chuyến đi Nguyên đơn đã mẫn cán để tàu có đủ khả năng đi biển”. Như vậy, bất đồng về việc xác định sự kiện tổn thất có được bảo hiểm hay không đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận dựa vào nhiều yếu tố. Đối với hợp đồng bảo hiểm, các bên thường xuyên có tranh chấp về sự kiện tổn thất có được bảo hiểm hay không. Để tránh những tranh chấp không cần thiết, các bên nên chi tiết hóa trong hợp đồng những sự kiện được bảo hiểm (cũng như sự kiện không được bảo hiểm) cũng như thu thập những chứng cứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình khi có tranh chấp.
#110 | Công ty thỏa thuận mua lại cổ phần đã bán
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng đăng ký và mua cổ phần. Sau đó hai bên có tranh chấp và Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn mua lại cổ phần mà Bị đơn và một số cổ đông đã chuyển nhượng cho Nguyên đơn. Bị đơn cho rằng yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn “phải có nghĩa vụ thực hiện là không có cơ sở”, Bị đơn “không có nghĩa vụ mua lại cổ phần chào bán của Nguyên đơn”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã quyết định “buộc Bị đơn mua lại 4.004.000 cổ phần mà Nguyên đơn đang có tại Bị đơn”. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp Công ty bán cổ phần và một vấn đề phát sinh trong thực tiễn liên quan đến nghĩa vụ mua lại cổ phần của Công ty. Từ vụ tranh chấp trên, chúng ta thấy có hai vấn đề khá quan trọng đáng lưu ý liên quan đến việc công ty mua lại cổ phần đã bán cho người khác. * Cơ sở để khẳng định bên bán có nghĩa vụ mua lại cổ phần Để có kết quả nêu trên, Hội đồng Trọng tài xác định đã có thỏa thuận theo đó Bị đơn cam kết mua lại cổ phần đã chuyển nhượng cho Nguyên đơn. Cụ thể, trên cơ sở Điều 8.2c hợp đồng theo đó “ Các cổ đông lớn và Công ty xác nhận rằng, theo các quy định tại Khoản 8, Các cổ đông lớn và Công ty sẽ chịu trách nhiệm riêng rẽ và liên đới đối với việc mua lại các cổ phần do Bên mua nắm giữ trong Công ty theo giá quy định tại Khoản 8.2.b theo yêu cầu của Bên mua ”, Bị đơn cho rằng “trách nhiệm” trong điều khoản vừa nêu không đồng nghĩa với “nghĩa vụ” mua lại các cổ phần mà là trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ dân sự theo Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là Điều 351 Bộ luật dân sự năm 2015): “ Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền ”. Tuy nhiên, dựa vào khái niệm “trách nhiệm” được nêu trong Bộ luật dân sự cũng như trong Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài xác định từ khái niệm “trách nhiệm” “không chỉ được sử dụng với ý nghĩa của Điều 302 Bộ luật dân sự, mà còn được sử dụng với ý nghĩa là một nghĩa vụ dân sự, mà một chủ thể phải thực hiện cho một chủ thể khác”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, các Bên sử dụng thuật ngữ “trách nhiệm” nhưng không nói đến một nghĩa vụ nào ngay trước đó và cũng không nói đến việc vi phạm nghĩa vụ này trước phần “trách nhiệm”. Điều đó cho phép Hội đồng Trọng tài hiểu rằng thuật ngữ “trách nhiệm” không được các Bên sử dụng trong ý nghĩa thứ nhất như đã phân tích ở trên, và thuật ngữ này được sử dụng để quy định một nghĩa vụ của người được xác định là có “trách nhiệm”, theo ý nghĩa thứ hai. Nói cách khác, nội dung điều khoản 8.2c đã ghi nhận một “trách nhiệm”, và trách nhiệm này đồng nghĩa với một “nghĩa vụ”. Trong vụ việc trên, các bên đã không thực sự rõ ràng trong việc khẳng định Bị đơn có nghĩa vụ mua lại cổ phần mà Nguyên đơn đã nhận chuyển nhượng mặc dù giữa các bên đã có một hợp đồng rất chi tiết về việc chuyển nhượng. Để không gặp khó khăn trong việc xác định có hay không nghĩa vụ mua lại cổ phần trong trường hợp công ty bán cổ phần, doanh nghiệp nên thận trọng trong việc thiết kế các điều khoản trong hợp đồng, không nên dùng những từ tối nghĩa như trong vụ việc nêu trên. * Giá trị ràng buộc của thỏa thuận mua lại cổ phần Ở vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài đã xác định trong hợp đồng có tranh chấp Bị đơn có nghĩa vụ mua lại cổ phần đã bán cho Nguyên đơn. Điều đó có nghĩa là giữa các bên đã có thỏa thuận theo đó Công ty có nghĩa vụ mua lại cổ phần mà Công ty đã bán. Vấn đề tiếp theo cần quan tâm là thỏa thuận này có hợp pháp hay không? Về phía mình, Bị đơn cho rằng “theo Luật Doanh nghiệp, Công ty cổ phần chỉ được mua lại cổ phần do chính công ty đã phát hành khi: a) mua lại theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90); hoặc b) mua lại cổ phần theo quyết định của công ty (Điều 91)”. Và, vẫn theo Bị đơn, 2 yêu cầu này đều không thỏa mãn nên Bị đơn không có nghĩa vụ và khả năng mua lại các cổ phần mà Nguyên đơn chào bán lại. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài cho rằng, theo khoản 1 Điều 80 Luật Doanh nghiệp năm 2005, một trong những “Nghĩa vụ của cổ đông phổ thông” là “không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần”. Với quy định này, cổ đông được rút vốn trong “trường hợp được công ty mua lại cổ phần”. Tiếp theo đó, Luật Doanh nghiệp cho phép Công ty mua lại cổ phần của mình theo “yêu cầu của cổ đông” tại Điều 90 và theo “quyết định của Công ty” tại Điều 91. Luật này không quy định Công ty chỉ được mua lại cổ phần của mình theo điều kiện của các điều khoản nêu trên. Như vậy, Luật Doanh nghiệp xác định cổ đông được rút vốn trong “trường hợp được công ty mua lại cổ phần” tại Điều 80, nhưng không hạn chế Công ty chỉ được mua lại cổ phần theo Điều 90 (xuất phát từ phía cổ đông) và Điều 91 (xuất phát từ phía Công ty). Do vậy, việc Bị đơn khẳng định “Công ty cổ phần chỉ được mua lại cổ phần do chính công ty đã phát hành khi: a) mua lại theo yêu cầu của cổ đông (Điều 90); hoặc b) mua lại cổ phần theo quyết định của công ty (Điều 91)” chỉ mang tính suy diễn. Từ đó, Hội đồng Trọng tài cho rằng việc áp dụng Điều 90 và Điều 91 để xem xét vụ việc đang tranh chấp là không phù hợp. Bởi lẽ, nghĩa vụ mua lại cổ phần trong hợp đồng đang có tranh chấp xuất phát từ thỏa thuận của các Bên, trong khi đó, các điều khoản của Luật Doanh nghiệp do Bị đơn viện dẫn lại quy định nội dung việc mua lại cổ phần của công ty theo yêu cầu của cổ đông và theo quyết định của công ty. Cuối cùng, trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015) về Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận theo đó “Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” và “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”, Hội đồng Trọng tài xét rằng thỏa thuận về nghĩa vụ mua lại cổ phần của các Bên trong hợp đồng không vi phạm điều cấm nào của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội nên “có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên”. Từ vụ việc trên, chúng ta thấy pháp luật về doanh nghiệp không cấm công ty mua lại cổ phần của mình sau khi bán ra và nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận buộc phải ghi nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận loại này. Do đó, khi bán cổ phần, công ty nên biết điều này để xác lập thỏa thuận tương ứng với lợi ích của mình.
#109 | Quyền được hưởng thù lao của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistic
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty M (Nguyên đơn) và Công ty L (Bị đơn) xác lập hợp đồng dịch vụ giao nhận và vận chuyển hàng hóa theo đó Bị đơn thuê dịch vụ vận chuyển của Nguyên đơn để vận chuyển hàng đến các cảng trên thế giới. Nguyên đơn đã thực hiện các yêu cầu vận chuyển của Bị đơn nhưng Bị đơn vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài buộc Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn. Bài học kinh nghiệm : Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao (Điều 233 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc trên, Nguyên đơn đã thực hiện các công việc liên quan đến vận chuyển hàng hóa của Bị đơn nhưng Bị đơn chưa thanh toán. Theo Hội đồng Trọng tài, “thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics được quyền hưởng thù lao dịch vụ và chi phí hợp lý khác. Như vậy, do Nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng nên Nguyên đơn được quyền hưởng phí dịch vụ như đã thỏa thuận tại Điều 5 của hợp đồng” và “khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics mọi khoản tiền đã đến hạn thanh toán”. Như vậy, theo Hội đồng Trọng tài, đây là quan hệ phát sinh từ dịch vụ logistic và doanh nghiệp thực hiện dịch vụ được hưởng thù lao dịch vụ. Hướng giải quyết như vậy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 235 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics có các quyền và nghĩa vụ sau đây: Được hưởng thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác”. Ở đây, quyền được hưởng thù lao của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics đồng nghĩa với nghĩa vụ trả thù lao của bên thuê dịch vụ. Đó là điểm doanh nghiệp thuê dịch vụ logistic cần biết và phải thực hiện đúng thời hạn, nếu không, như Hội đồng Trọng tài đã quyết định, Bị đơn phải thanh toán “tiền lãi phát sinh đối với nợ gốc do chậm thanh toán” và “phải chịu toàn bộ phí trọng tài” cho Nguyên đơn.
#108 | Xác lập hối phiếu đòi nợ
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Nguyên đơn, Bị đơn đã ký hợp đồng để mua hạt điều. Do vấn đề chất lượng nên Nguyên đơn và Bị đơn hủy ba hợp đồng chưa hoàn thành và xử lý hệ quả bằng hối phiếu đòi nợ. Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định hối phiếu đòi nợ đã không được xác lập một cách hợp lệ. Bài học kinh nghiệm : Hối phiếu đòi nợ là một công cụ chuyển nhượng được ghi nhận trong Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005. Theo Luật này, “ Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng ” (khoản 2 Điều 4). Ở đây, chúng ta có “ người ký phát ” và người này được xác định “ là người lập và ký phát hành hối phiếu đòi nợ ” (khoản 5 Điều 4), “ người bị ký phát ” và người này được xác định “ là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ ”. Để tồn tại hối phiếu đòi nợ, chúng ta có một quy trình xác lập hợp pháp để bảo vệ quyền lợi của mình và vụ việc trên cho chúng ta cơ hội để hiểu rõ quy trình xác lập. Trên cơ sở các quy định nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ căn cứ vào quá trình phát hành hối phiếu đòi nợ nêu trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn gửi dự thảo hối phiếu đòi nợ để trống các thông tin, yêu cầu Bị đơn ký chấp nhận, gửi lại Nguyên đơn; sau đó Nguyên đơn bổ sung ngày ký phát, thời hạn thanh toán và ký phát hối phiếu đòi nợ là không phù hợp với quy định của khoản 2 Điều 4 Luật Các công cụ chuyển nhượng ”. Ở đây, vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “ Hối phiếu đòi nợ đã không được lập và ký phát hành bởi Nguyên đơn. Nguyên đơn đã gửi dự thảo hối phiếu qua email cho Bị đơn, để trống ngày ký phát, thời điểm thanh toán và chữ ký của bên ký phát. Bị đơn in ra và đóng dấu rồi gửi lại cho Nguyên đơn. Nguyên đơn là bên sau cùng ký và tự mình ghi các thông tin quyết định đến giá trị của hối phiếu đòi nợ như: Ngày ký phát, thời điểm thanh toán và chữ ký của người ký phát ”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “ cách phát hành như vậy là không đúng theo quy định của pháp luật. Người bị ký phát không thể ký trước người ký phát mà không biết khi nào mình phải thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ. Như vậy vô hình chung giữa các Bên không có thỏa thuận nhận nợ trước lúc ký phát (thiếu thời điểm thanh toán). Nếu Nguyên đơn cho rằng Bị đơn là người ký phát (mà thực tế không phải vậy), thì cách này chỉ phù hợp đối với hối phiếu nhận nợ. Tuy nhiên, trường hợp xảy ra tranh chấp lại là hối phiếu đòi nợ. Do đó, việc phát hành hối phiếu đòi nợ không phù hợp ”. Nội dung trên đã cho thấy quy trình xác lập một hối phiếu đòi nợ và quy trình này đã không được các bên tuân thủ nên đã dẫn đến hệ quả là “ Hội đồng Trọng tài không công nhận nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn theo hối phiếu đòi nợ, nên bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn ”. Do đó, khi doanh nghiệp muốn sử dụng hối phiếu đòi nợ , doanh nghiệp cần xem xét quy trình xác lập và thực hiện theo đúng quy trình.
#107 | Xử lý tài sản bảo đảm là cổ phần, phần góp vốn trong công ty
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Một cá nhân (Nguyên đơn - ông B) cho một Công ty trách nhiệm hữu hạn (Bị đơn - Công ty HP) vay một khoản tiền. Việc vay này có bảo lãnh của hai thành viên Công ty (ông T và bà H) và hai thành viên công ty này mang phần góp vốn của mình để bảo lãnh việc vay tiền nêu trên. Hội đồng Trọng tài đã đưa ra hướng xử lý đối với tài sản bảo đảm nêu trên. Bài học kinh nghiệm : Việc các chủ thể sử dụng quyền trong doanh nghiệp (cổ phần trong công ty cổ phần hay phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ rất phổ biến trong hoạt động kinh doanh. Vụ việc nêu trên là một trong nhiều trường hợp thực tiễn đã gặp phải. Ở đây, vấn đề xử lý tài sản bảo đảm trên được tiến hành như thế nào khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện đầy đủ? Trong vụ việc trên, ngoài cam kết bảo lãnh của các thành viên công ty, Điều 7 hợp đồng còn quy định “trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho Bên B, mà Bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì Bên bảo lãnh phải tự nguyện đưa tài sản thuộc sở hữu của mình là phần vốn góp trong Công ty HP để thanh toán cho Bên A vào bất cứ lúc nào theo yêu cầu của Bên A chiếu theo điều 6.4 ở trên”. Về nội dung này, Hội đồng Trọng tài xác định “đây thực chất là cam kết giữa người bảo lãnh với người có quyền về thế chấp tài sản của người bảo lãnh để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và cam kết này phù hợp với” quy định về biện pháp bảo đảm, quy định trong pháp luật doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Điều 7 hợp đồng còn quy định “các Bên thỏa thuận việc xử lý tài sản của Bên bảo lãnh để thanh toán cho khoản vay theo tỷ lệ như sau : Cứ 1.000.000.000 (một tỷ) VND của khoản vay này sẽ được quy đổi tương đương với 1,5 phần góp vốn điều lệ của Công ty HP, bắt đầu bằng phần vốn góp của ông T và sau đó sẽ đến phần vốn góp của bà H, hai bên bảo lãnh đồng ý để việc này được thực hiện mà không bảo lưu quyền ưu tiên của thành viên góp vốn. Trong trường hợp này, Bên bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện tất cả các thủ tục pháp lý cần thiết để Bên A trở thành thành viên công ty thông qua phần góp vốn được quy đổi từ khoản vay theo quy định của hợp đồng này”. Hội đồng Trọng tài cũng xác định “đây là thỏa thuận về xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và thỏa thuận này phù hợp” với quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “tài sản bảo đảm ở đây là phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn và các bên thỏa thuận Bên bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện tất cả các thủ tục pháp lý cần thiết để Bên A trở thành thành viên công ty thông qua phần góp vốn được quy đổi từ khoản vay . Nội dung này cho thấy các bên chưa ghi nhận có việc chuyển quyền sở hữu phần góp vốn từ người bảo lãnh sang người có quyền (người nhận bảo lãnh) mà chỉ thỏa thuận về cách thức chuyển quyền sở hữu phần vốn góp từ người bảo lãnh sang người nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, việc chuyển phần vốn góp này có quy định đặc thù trong Luật Doanh nghiệp nên cần phải tuân thủ thêm các quy định của Luật Doanh nghiệp sẽ được phân tích ở phần sau”. Cụ thể về hướng xử lý tài sản bảo đảm, Hội đồng Trọng tài cho rằng “tài sản bảo đảm nêu trên là phần vốn góp trong Công ty HP trong khi đó khoản 6 Điều 45 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định trường hợp thành viên sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán có quyền sử dụng phần vốn góp đó theo một trong hai cách sau đây: a) Trở thành thành viên của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận; b) Chào bán và chuyển nhượng phần vốn góp đó theo quy định tại Điều 44 của Luật này (nay là khoản 6 Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Vì vậy, cần buộc ông T và bà H có nghĩa vụ thực hiện tất cả các thủ tục pháp lý để chuyển nhượng 39,203% phần góp vốn cho Nguyên đơn để cấn trừ nghĩa vụ bảo lãnh trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp về sử dụng phần góp vốn để trả nợ”. Nội dung trên cho thấy việc sử dụng quyền trong doanh nghiệp để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là rất phổ biến và là phù hợp với quy định của pháp luật. Đối với trường hợp này, việc xử lý tài sản phải tuân thủ các quy định trong pháp luật dân sự và quy định trong pháp luật doanh nghiệp có liên quan. Ở đây, vụ việc liên quan đến tài sản bảo đảm là phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn nhưng hướng tư duy tương tự cũng cần được vận dụng nếu tài sản bảo đảm là cổ phần trong các công ty cổ phần. Đó là những điểm mà doanh nghiệp cũng như thành viên của doanh nghiệp cũng như đối tác của doanh nghiệp cần biết đến.
#106 | Bảo lãnh của thành viên công ty đối với khoản vay của công ty
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Một cá nhân (Nguyên đơn - ông B) cho một Công ty (Bị đơn - Công ty HP) vay tiền. Việc vay này có bảo lãnh của hai thành viên Công ty, cả hai là thành viên góp vốn (ông T và bà H) và một người kiêm người đại diện theo pháp luật của Công ty (bà H). Hội đồng Trọng tài xác định việc bảo lãnh này không vi phạm các quy định về xung đột lợi ích liên quan đến công ty. Bài học kinh nghiệm : Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó , trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” và nay là khoản 3 Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 59 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định “Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải được Hội đồng thành viên chấp thuận: a) Thành viên, người đại diện theo uỷ quyền của thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật của công ty; b) Người có liên quan của những người quy định tại điểm a khoản này; c) Người quản lý công ty mẹ, người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ; d) Người có liên quan của người quy định tại điểm c khoản này” và nay là khoản 1 Điều 67 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo đó “Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải được Hội đồng thành viên chấp thuận: a) Thành viên, người đại diện theo ủy quyền của thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật của công ty; b) Người có liên quan của những người quy định tại điểm a khoản này; c) Người quản lý công ty mẹ, người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ; d) Người có liên quan của người quy định tại điểm c khoản này”. Sau khi viện dẫn quy định trên, Hội đồng Trọng tài xét rằng “Các quy định trên được ban hành nhằm hạn chế, giải quyết vấn đề xung đột lợi ích có thể xảy ra trong quan hệ đại diện và trong quan hệ giữa công ty và thành viên công ty hay người có liên quan (ở đây là Công ty trách nhiệm hữu hạn). Trong vụ việc này, tranh chấp phát sinh giữa cá nhân ông B với từng Bị đơn : Bị đơn thứ nhất là Công ty HP với vai trò người đi vay, Bị đơn thứ hai là bà H với vai trò người bảo lãnh và Bị đơn thứ ba là ông T với vai trò người bảo lãnh (Hội đồng Trọng tài không giải quyết quan hệ giữa các Bị đơn với nhau vì hiện nay không có tranh chấp giữa các Bị đơn với nhau). Trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp, không có bất kỳ Bên nào cho rằng quan hệ có tranh chấp giữa Nguyên đơn và các Bị đơn vi phạm các quy định trên. Mặc dù vấn đề xung đột lợi ích không được Bên nào trong tranh chấp nghi ngờ trong vụ tranh chấp này nhưng, để giải quyết các yêu cầu của Nguyên đơn theo hướng buộc thực hiện hoàn trả tiền vay và tiền lãi từ hợp đồng vay và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, cần đảm bảo tính hợp pháp của các giao dịch mà Nguyên đơn đã xác lập với các Bị đơn (nếu các giao dịch giữa Nguyên đơn và các Bị đơn không hợp pháp thì không có cơ sở để yêu cầu thực hiện). Do đó, Hội đồng Trọng tài xét thấy cần làm sáng tỏ quan hệ giữa Nguyên đơn và các Bị đơn có vi phạm hai điều luật nêu trên hay không”. Liên quan đến bảo lãnh của bà H, theo Hội đồng Trọng tài, “trong hợp đồng vay, bà H là người đại diện của Công ty HP, đồng thời cũng là người bảo lãnh việc Công ty TNHH HP vay tiền ông B. Theo Điều 361 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là Điều 335 Bộ luật dân sự năm 2015) theo đó bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ . Trên cơ sở quy định này, chỉ cần có cam kết của người thứ ba “với bên có quyền” là bảo lãnh hợp lệ trong khi đó người cam kết bảo lãnh là bà H (người thứ ba so với quan hệ vay tiền - bà H không là người vay tiền như đã nêu ở trên) còn người có quyền không là Công ty HP mà là ông B. Ở đây, bà H và ông B không có quan hệ đại diện nên không xâm phạm các quy định của Bộ luật dân sự nêu trên. Quan hệ bảo lãnh giữa bà H và ông B cũng không chịu sự điều chỉnh của điều luật nêu trên của Luật Doanh nghiệp vì điều luật này áp dụng cho h ợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng được liệt kê trong khi đó ông B không thuộc diện được liệt kê tại điều luật này và cũng không phải là giao dịch giữa công ty và ông B hay với bà H mà là giao dịch - cam kết giữa bà H và ông B nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật đó. Do vậy, quan hệ bảo lãnh giữa ông B (Nguyên đơn) và bà H (một bị Bị đơn khác) không vi phạm các quy định trên”. Đối với việc bảo lãnh của ông T, vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “trong hợp đồng có tranh chấp, ông T là thành viên có vốn góp trong Công ty HP và là người bảo lãnh việc Công ty HP vay tiền ông B. Như đã nêu ở trên, chỉ cần có cam kết của người thứ ba với bên có quyền là bảo lãnh hợp lệ trong khi đó người cam kết bảo lãnh là ông T (người thứ ba so với quan hệ vay tiền - ông T không là người vay tiền như đã nêu ở trên) còn người có quyền không là Công ty HP mà là ông B. Ở đây, ông T và ông B không có quan hệ đại diện nên không xâm phạm các quy định của Bộ luật dân sự nêu trên. Quan hệ bảo lãnh giữa ông T và ông B cũng không chịu sự điều chỉnh của điều luật nêu trên của Luật Doanh nghiệp vì điều luật này áp dụng cho h ợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng được liệt kê trong khi đó ông B không thuộc diện được liệt kê tại điều luật này và đây cũng không phải là giao dịch giữa công ty và ông B mà là giao dịch - cam kết giữa ông B và ông T nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều luật đó. Do vậy, quan hệ bảo lãnh có tranh chấp giữa ông B (Nguyên đơn) và ông T (một bị Bị đơn khác) không vi phạm các quy định trên”. Kinh nghiệm cho thấy thường xuyên Công ty đi vay hay người bảo lãnh việc Công ty đi vay viện dẫn các quy định về xung đột lợi ích trong Bộ luật dân sự hay trong Luật Doanh nghiệp nhằm vô hiệu hóa cam kết đã đưa ra trước đây. Vụ việc trên cho thấy loại bảo lãnh như trên là rất phổ biến và cam kết bảo lãnh như vậy không vi phạm các quy định về xung đột lợi ích nên cần phải tôn trọng, tức người bảo lãnh là thành viên công ty phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Công ty không thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng vay. Đây là điểm doanh nghiệp đi vay, thành viên công ty cũng như người cho vay cần biết để không làm ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của các chủ thể liên quan. Vụ việc trên liên quan đến Công ty trách nhiệm hữu hạn nhưng tư duy tương tự cũng cần được vận dụng khi Công ty đi vay là công ty cổ phần.
#105 | Bồi thường thiệt hại do tài sản cho mượn bị hư hỏng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty S (Bên cho mượn) cho Công ty D (Bị đơn - Bên mượn) mượn khuôn nhưng do hỏa hoạn khuôn cho mượn bị hư hỏng. Sau đó, Công ty S đã chuyển quyền của mình cho Công ty bảo hiểm V (Nguyên đơn - trở thành Bên cho mượn). Trên cơ sở yêu cầu của Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài đã buộc Bị đơn bồi thường. Bài học kinh nghiệm : Trong hoạt động kinh doanh, hợp đồng mượn tài sản thường xuyên tồn tại. Đó là “sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, còn bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được” (Điều 512 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 494 Bộ luật dân sự năm 2015). Hợp đồng nêu trên là hợp đồng mượn tài sản. Theo khoản 4 Điều 514 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 4 Điều 496 Bộ luật dân sự năm 2015, bên mượn tài sản có nghĩa vụ “Bồi thường thiệt hại, nếu làm hư hỏng, mất mát tài sản mượn”. Tương ứng với nghĩa vụ của bên mượn, khoản 3 Điều 517 Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 3 Điều 499 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bên cho mượn tài sản các quyền “Yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản do người mượn gây ra”. Trong vụ việc trên, tài sản cho mượn đã bị hư hỏng và câu hỏi đặt ra là bên mượn có nghĩa vụ bồi cho bên cho mượn không? Bị đơn cho rằng nguyên nhân của vụ hỏa hoạn không phải do lỗi bất cẩn hay lỗi của con người. Đây là hỏa hoạn, bất khả kháng nên miễn trừ trách nhiệm cho các bên. Nếu việc khuôn bị hư hỏng do bất khả kháng thì bên mượn được miễn trách nhiệm bồi thường trên cơ sở khoản 2 Điều 302 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 351 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ (dân sự) do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự” và khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: Xảy ra sự kiện bất khả kháng” (điểm b). Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài vẫn buộc Bên mượn phải bồi thường thiệt hại cho Bên cho mượn và, để đạt được điều này, Hội đồng Trọng tài đã lập luận như sau: Đầu tiên , như các phân tích ở trên, Bị đơn đã mượn 117 khuôn với số Code như được liệt kê tại Danh sách các khuôn đính kèm Thỏa thuận mượn khuôn. Căn cứ điều VII.B và Điều IV.6 của Thỏa thuận mượn khuôn, Bị đơn, với tư cách bên mượn, sẽ phải chịu mọi rủi ro và phải bồi thường cho Bên cho mượn, với tư cách bên cho mượn, về bất cứ tổn thất, thiệt hại, hư hỏng xảy ra với các khuôn trong suốt thời gian mượn và/hoặc bất cứ thời điểm nào mà những khuôn này nằm dưới sự chiếm hữu của Bị đơn. Thứ hai , vụ hỏa hoạn gây hư hỏng 117 khuôn có nguyên nhân trực tiếp là do hiện tượng chập mạch hệ thống điện chiếu sáng của Bị đơn (theo như khẳng định của Viện Khoa học hình sự), việc này không được coi là sự kiện bất khả kháng. Bị đơn cũng không chứng minh được rằng Bị đơn không có lỗi trong việc khiến 117 Khuôn bị thiệt hại. Thứ ba , theo Điều IV.2 của Thỏa thuận mượn khuôn, các bên đã đồng ý rằng Bị đơn phải đảm bảo các khuôn được bảo quản ở tình trạng tốt nhất. Hội đồng Trọng tài nhận định rằng Thỏa thuận mượn khuôn là một dạng hợp đồng mượn tài sản, vì vậy, bị điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự. Điều 514 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 496 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Bên mượn tài sản có các nghĩa vụ giữ gìn, bảo quản tài sản mượn như tài sản của chính mình” và “Bồi thường thiệt hại, nếu làm hư hỏng, mất mát tài sản mượn”. Vụ hỏa hoạn xảy ra tại khu vực nhà kho và nhà máy của Bị đơn gây thiệt hại cho 117 khuôn và không được coi là sự kiện bất khả kháng. Vì thế, Hội đồng Trọng tài quan điểm rằng Bị đơn đã vi phạm Thỏa thuận mượn khuôn khi đã không thực hiện nghĩa vụ giữ gìn và bảo quản các khuôn như tài sản của chính mình. Với hành vi vi phạm này, Nguyên đơn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường cho các khuôn mà Bị đơn mượn. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp biết rằng bên mượn tài sản phải bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng tài sản cho mượn nếu việc hư hỏng này không do sự kiện bất khả kháng gây ra. Việc bồi thường này đã được quy định tương đối rõ trong Bộ luật dân sự.
#104 | Xác định thời điểm hoàn trả tài sản thuê
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn - Bên cho thuê) ký một hợp đồng với Công ty S (Bị đơn - Bên thuê). Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và Hội đồng Trọng tài ra Phán quyết trọng tài xác định Bên thuê “có thời hạn 18 tháng tính từ ngày công bố Phán quyết trọng tài này để chuẩn bị cho việc tìm địa điểm mới và di dời cơ sở kinh doanh ra khỏi địa điểm”. Bài học kinh nghiệm : Hợp đồng thuê tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải trả tiền thuê (Điều 480 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 472 Bộ luật dân sự năm 2015). Ở đây, hợp đồng thuê chỉ tồn tại một thời hạn và, khi kết thúc hợp đồng thuê, bên thuê phải hoàn trả tài sản thuê. Vấn đề đặt ra là bên thuê phải trả tài sản thuê ở thời điểm nào khi hợp đồng thuê chấm dứt (khi hết thời hạn cũng như khi kết thúc trước thời hạn)? Đây luôn là vấn đề khó cho cơ quan tài phán khi giải quyết hệ quả của hợp đồng thuê chấm dứt, nhất là khi đối tượng thuê tài sản là nhà. Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài “chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về việc đơn phương chấm dứt trước thời hạn hợp đồng”. Liên quan đến thời điểm hoàn trả tài sản thuê, Hội đồng Trọng tài xét rằng “nên tạo cho Bị đơn một thời hạn cần thiết để tìm địa điểm mới tiếp tục kinh doanh và bảo đảm quyền lợi của 1.300 học viên đang theo học các lớp nhạc dài hạn do Bị đơn tổ chức. Hội đồng Trọng tài nhận thấy cần có một thời gian đủ dài để các lớp học của Bị đơn không bị gián đoạn đột ngột, tránh những ảnh hưởng không tích cực do sự gián đoạn này có thể mang lại cho các bên thứ ba liên quan. Tính từ thời điểm công bố Phán quyết trọng tài này đến hết thời hạn hợp đồng số 02, thời gian còn lại là 38 tháng. Thời gian để cho Nguyên đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn được Hội đồng Trọng tài, theo ý kiến đa số, tính tròn 20 tháng, áp dụng từ ngày 31/03/2014 đến ngày 30/11/2015”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài quyết định “Bị đơn, có thời hạn 18 tháng tính từ ngày công bố Phán quyết trọng tài này để chuẩn bị cho việc tìm địa điểm mới và di dời cơ sở kinh doanh ra khỏi địa điểm. Bị đơn phải bàn giao lại toàn bộ địa điểm trên cho Nguyên đơn chậm nhất vào ngày 31/03/2014”. Việc cho bên thuê một khoảng thời gian nhất định là cần thiết để tìm tài sản thuê thay thế. Do đó, việc tính toán thời gian hoàn trả tài sản thuê cần xem xét đến cả khả năng tìm tài sản thay thế của bên thuê. Việc xác định thời gian hoàn trả cũng cần phải tính toán đến nhu cầu về tài sản của bên cho thuê. Nói cách khác, phải dung hòa lợi ích của hai bên để tìm ra một khoảng thời gian hợp lý và việc làm này cần được tiến hành trên cơ sở Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (được kế thừa lại tại Điều 7 Bộ luật dân sự năm 2015). Lưu ý thêm là trong giai đoạn tài sản thuê vẫn chưa được hoàn trả, bên cho thuê vẫn phải được đảm bảo quyền lợi như vẫn được nhận tiền thuê tài sản do bên thuê vẫn tiếp tục sử dụng tài sản của bên cho thuê.