Trọng tài thương mại
#103 | Trách nhiệm trả tiền thuê của bên thuê tài sản
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn - Bên cho thuê) ký hợp đồng thuê tài sản với Công ty X (Bị đơn - Bên thuê). Bên thuê đã sử dụng tài sản nhưng không thanh toán tiền thuê và Hội đồng Trọng tài ra Phán quyết trọng tài buộc Bên thuê phải thanh toán tiền thuê cho Bên cho thuê. Bài học kinh nghiệm : Quan hệ giữa các Bên là quan hệ thuê tài sản được hình thành từ hợp đồng xác lập năm 2003. Nguyên đơn cho Bị đơn thuê nhà xưởng và các công trình công nghiệp (hệ thống điện, nước, đường nội bộ, tường bao, hệ thống phòng cháy chữa cháy, nhà để xe...) với thời hạn thuê 10 năm tính từ ngày bàn giao với giá thuê là 70.000 USD/1 năm và được thanh toán bằng VNĐ. Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận “Th ời hạn thuê là 10 năm tính từ ngày đối tượng thuê được Bên B bàn giao cho Bên A sử dụng, ch ia thành 02 giai đoạn, mỗi giai đoạn 0 5 năm, ký hợp đồng thuê theo từng giai đoạn” . Thực tế, Bị đơn vẫn sử dụng nhà xưởng và công trình công nghiệp thuê của Nguyên đơn một cách ổn định từ khi nhận tài sản đến khi có tranh chấp. Do một số mâu thuẫn trong nội bộ giữa các thành viên góp vốn trong công ty của Nguyên đơn cho nên đến đầu năm 2012 Nguyên đơn chưa yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền thuê nhà xưởng từ năm 2007 đến năm 2012. Trong năm 2012, Nguyên đơn đã nhiều lần gửi công văn yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền thuê nhà xưởng từ năm 2007 đến năm 2012. Câu hỏi đặt ra là Bên thuê có trách nhiệm trả tiền thuê tài sản đối với thời gian đã sử dụng tài sản thuê không? Hội đồng Trọng tài đã theo hướng Bên thuê phải trả tiền thuê cho cả hai giai đoạn nêu trong hợp đồng. Đối với giai đoạn 01 của hợp đồng, theo Hội đồng Trọng tài, “cho dù Bị đơn trình bày rằng việc Bị đơn chưa trả tiền thuê là do lỗi của Nguyên đơn, nhưng một khi Bị đơn đã khẳng định Bị đơn không có ý kiến về tiền thuê trong giai đoạn 01 thì việc Bị đơn chưa trả tiền thuê trong 17 tháng ở giai đoạn nêu trên đã có đủ cơ sở để khẳng định Bị đơn vi phạm hợp đồng và do đó, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn số tiền thuê trong 17 tháng”. Về giai đoạn 02 của hợp đồng, Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải ký hợp đồng cho giai đoạn 02 rồi mới xem xét vấn đề thanh toán tiền thuê của giai đoạn 02 nhưng Hội đồng Trọng tài cho rằng “nếu Bị đơn chỉ muốn ký hợp đồng cho giai đoạn một thì ngay trước khi kết thúc thời hạn hợp đồng của giai đoạn 01 vào tháng 02/2009, Bị đơn cần phải thông báo và thỏa thuận lại với Nguyên đơn về việc ký hợp đồng giai đoạn 02 nhưng Bị đơn, tuy đã cố gắng tìm cách liên lạc, song đã không nỗ lực hết sức để đạt kết quả đó. Trong khi đó trên thực tế, Bị đơn vẫn sử dụng công trình thuê từ ngày được bàn giao cho đến hiện nay. Điều này có thể hiểu rằng Bị đơn vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, “căn cứ vào các hồ sơ, tài liệu và chứng cứ liên quan tới vụ việc được Nguyên đơn và Bị đơn cung cấp và qua trình bày, tranh luận của các Bên tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Hội đồng Trọng tài không thấy có bất cứ chứng cứ nào quy định rằng Nguyên đơn sẽ không được Bị đơn trả tiền thuê nếu hợp đồng cho giai đoạn 02 chưa được ký kết. Ngoài ra, trong Công văn số 03/XT-TTTTVN của Bị đơn đề ngày 04/10/2013 gửi VIAC, Bị đơn đã giải thích rằng mục đích của việc đề xuất 05 năm ký hợp đồng một lần là để có quá trình tìm hiểu thị trường Việt Nam, tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh xem có thể ký tiếp hợp đồng cho 05 năm tiếp theo không và kiểm soát việc điều chỉnh tăng giá cho thuê. Trong thực tế giá thuê không tăng cho đến tận bây giờ. Do đó, Hội đồng Trọng tài cho rằng chưa có đủ cơ sở để cho rằng Nguyên đơn không có quyền đòi tiền thuê của giai đoạn 02 cũng như chưa có đủ cơ sở để Bị đơn được miễn nghĩa vụ thanh toán tiền thuê trong giai đoạn 02”. Như vậy, Bên thuê tài sản phải trả tiền thuê một khi đã sử dụng tài sản thuê cho dù các Bên chưa ký lại hợp đồng cho giai đoạn 02. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài là thuyết phục. Đối với giai đoạn 01, hướng giải quyết này không có khó khăn gì vì, theo Bộ luật dân sự, “bên thuê phải trả tiền thuê” (Điều 480 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 472 Bộ luật dân sự năm 2015). Đối với giai đoạn 02, khó khăn phát sinh từ việc các Bên thỏa thuận “ ký hợp đồng thuê theo từng giai đoạn ” nhưng các Bên chưa ký hợp đồng cho giai đoạn 02 và Bên thuê vẫn tiếp tục sử dụng ổn định tài sản thuê. Trong trường hợp này, chúng ta có thể hiểu các Bên vẫn tiếp tục duy trì quan hệ thuê tài sản. Do đó, theo quy định trên, bên thuê phải trả tiền thuê như Hội đồng Trọng tài đã phán xét.
#102 | Xử lý đặt cọc theo ý chí của bên mua khi bên bán không giao hàng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Séc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán). Trong hợp đồng có thỏa thuận đặt cọc và Bên bán không giao hàng nên Hội đồng Trọng tài đã buộc Bên bán hoàn trả tiền cọc cho Bên mua. Bài học kinh nghiệm : Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp Bên mua thỏa thuận giao cho Bên bán một khoản tiền và khẳng định là tiền đặt cọc. Trong trường hợp Bên bán không giao hàng thì có phải chịu phạt cọc không? Ở vụ việc trên, các Bên thỏa thuận thanh toán 100% bằng TTR, trong đó 20% trị giá hợp đồng (tương đương 10.000 USD) được Bên mua (Nguyên đơn) đặt cọc vào tài khoản của Bên bán (Bị đơn) khi ký hợp đồng và 80% trị giá hợp đồng (tương đương 37.000 USD) sẽ được thanh toán ngay khi nhận được bộ chứng từ gốc qua scan chậm nhất 10 ngày sau ngày của B/L. Thực tế, Bên mua đã chuyển vào tài khoản của Bên bán khoản tiền đặt cọc trên nhưng Bên bán không giao hàng cho dù Bên mua thúc giục nhiều lần. Trên cơ sở yêu cầu của Bên mua buộc Bên bán hoàn trả tiền cọc, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “thực tế Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng và Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Bị đơn hoàn trả số tiền Nguyên đơn đã đặt cọc nhưng Bị đơn không trả; căn cứ khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, Hội đồng Trọng tài thấy rằng yêu cầu này của Nguyên đơn là có căn cứ pháp luật”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài quyết định “Buộc Bị đơn hoàn trả cho Nguyên đơn 10.000 USD (bằng chữ: mười ngàn đô la Mỹ) mà Nguyên đơn đã đặt cọc cho Bị đơn”. Theo Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015, “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Trong vụ việc trên, Bên mua đã nhận cọc nhưng từ chối thực hiện hợp đồng nên phải xử lý đặt cọc. Về cách thức xử lý đặt cọc, Bộ luật dân sự đưa ra hai hướng giải quyết: thứ nhất , xử lý theo thỏa thuận của các bên; thứ hai , nếu không có thỏa thuận, bên từ chối thực hiện hợp đồng “phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”. Ở đây, các Bên chỉ thỏa thuận “trong trường hợp Bên mua không muốn mua sản phẩm với bất kỳ lý do gì, tiền đặt cọc sẽ không được trả lại” mà không đề cập đến trường hợp Bên bán không giao hàng. Vì vậy, theo Bộ luật dân sự, Bên mua được nhận lại tiền cọc và buộc Bên bán phải trả một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Thực tế, Bên mua chỉ yêu cầu hoàn trả tiền cọc mà không yêu cầu Bên bán phải trả một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Yêu cầu này có lợi cho Bên bán và đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Ở đây, Bên mua đã tự định đoạt về quyền lợi của mình và việc định đoạt này có lợi cho Bên bán nên được chấp nhận. Qua đây, doanh nghiệp tham gia đặt cọc cho việc mua bán hàng hóa cần lưu ý rằng họ không chỉ được yêu cầu bên bán trả cho bên mua tài sản đặt cọc mà còn được yêu cầu bên bán thanh toán một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc. Tuy nhiên, nếu bên mua chỉ yêu cầu hoàn trả tài sản đặt cọc thì cũng được chấp nhận vì đây là sự định đoạt của bên mua có lợi cho bên bán như chúng ta đã thấy trong vụ việc trên.
#101 | Xử lý đặt cọc theo pháp luật khi bên bán không giao hàng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Thái Lan (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán). Bên mua đã đặt cọc nhưng Bên bán không giao hàng và hoàn trả một phần tiền cọc. Theo yêu cầu của Bên mua, Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán hoàn trả tiền đặt cọc còn thiếu và chịu phạt một khoản tiền tương đương với tiền đặt cọc. Bài học kinh nghiệm : Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp Bên mua thỏa thuận giao cho Bên bán một khoản tiền và khẳng định là tiền đặt cọc. Đây là đặt cọc để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong trường hợp Bên bán không giao hàng thì phải xử lý vấn đề đặt cọc như thế nào theo quy định của pháp luật? Ở vụ việc trên, Bị đơn đã vi phạm hợp đồng bằng việc không thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Do Bị đơn đã không giao hàng theo đúng thời gian đã quy định trong hợp đồng nên Nguyên đơn và Bị đơn đã ký Phụ lục hợp đồng, theo đó các Bên thỏa thuận rằng Bị đơn sẽ giao hàng hóa cho Nguyên đơn vào ngày 20/04/2012, nếu vi phạm sẽ phải hoàn trả đầy đủ tiền đặt cọc và bồi thường số tiền bằng 10% tiền đặt cọc. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định “căn cứ vào giấy Bị đơn chuyển tiền cho Nguyên đơn vào ngày 13/06/2012 và Biên nhận đề ngày 11/04/2013 cho thấy, có đủ cơ sở xác định Bị đơn đã nhận đầy đủ 77.739 USD (do 36 USD đã bị khấu trừ cho dịch vụ ngân hàng) từ Nguyên đơn. Vì đã nhận tiền đặt cọc nhưng không giao hàng nên Bị đơn mới hoàn trả lại một phần tiền đặt cọc vào các ngày nêu trên. Ngoài ra, tại Biên nhận đề ngày 11/04/2013, Bị đơn còn nêu rõ số tiền 2.000 USD mà Bị đơn đưa cho Nguyên đơn là để thanh toán một phần khoản tiền đặt cọc 57.739 USD mà Công ty TNHH Thương mại Đ còn nợ theo hợp đồng mua bán hàng hóa số 01CF-DH/2012 ”. Sau khi viện dẫn Khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005 có nội dung nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác , Hội đồng Trọng tài xét rằng “dù hai Bên thỏa thuận 10% tính trên Tiền đặt cọc là khoản bồi thường dịch theo nghĩa của từ “compensated” nhưng Hội đồng Trọng tài cho rằng đây được xem là một khoản tiền phạt cọc mà Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn do đã không thực hiện hợp đồng như quy định tại Khoản 2 Điều 358 của Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn ngoài việc phải hoàn trả khoản tiền đặt cọc còn thiếu là 55.774 USD còn phải thanh toán khoản tiền 7.774 USD cho Nguyên đơn như thỏa thuận tại Phụ lục hợp đồng”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng các Bên có thỏa thuận đặt cọc và buộc Bên bán (Bị đơn) hoàn trả tiền cọc (đã trả một phần nên phải trả tiếp phần còn thiếu) đồng thời phải thanh toán một khoản tương đương với khoản tiền cọc đã giao nhận. Trong vụ việc này, có sự đan xen giữa thỏa thuận của các Bên và quy định của pháp luật về phạt cọc đối với bên nhận đặt cọc. Thực ra, thỏa thuận của các Bên không khác nội dung quy định của pháp luật (theo đó “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”) nên không có nhiều ý nghĩa. Quy định vừa nêu đưa ra hướng giải quyết và Bộ luật dân sự cho các Bên thỏa thuận khác nên nếu các Bên thỏa thuận giống như quy định của pháp luật thì đây không thực sự là thỏa thuận khác mà chỉ là áp dụng thuần túy quy định của pháp luật. *Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận.
#100 | Tiền giao nhận là tiền trả trước nên không áp dụng đặt cọc
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty S (Nguyên đơn) ký hợp đồng dịch vụ với Công ty N (Bị đơn). Thực tế, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn một khoản tiền (bằng 50% giá trị hợp đồng dịch vụ). Sau đó các Bên có tranh chấp và bất đồng với nhau về bản chất của khoản tiền này. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định khoản tiền giao nhận “được coi là tiền trả trước và không phải là tiền cọc”. Bài học kinh nghiệm : Trong hoạt động thương mại, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp, ngay sau khi giao kết hợp đồng, một bên giao cho bên kia một khoản tiền. Sau đó các bên có bất đồng quan điểm về bản chất của quan hệ giao tiền. Thường thì bên giao tiền coi đây là đặt cọc (như trong vụ việc trên Nguyên đơn coi là tiền cọc) và bên nhận tiền không coi đây là đặt cọc mà chỉ coi là tiền trả trước (như trong vụ việc trên, Bị đơn cho rằng giữa các bên “không có bất kỳ khoản tiền nào được gọi là tiền cọc”). Việc xác định bản chất quan hệ nêu trên kéo theo hệ quả pháp lý khác nhau. Chẳng hạn, nếu bên nhận tiền không thực hiện đúng hợp đồng và đây chỉ là tiền trả trước thì bên nhận tiền phải hoàn trả tiền đã nhận (và không chịu phạt cọc từ việc nhận khoản tiền này). Ngược lại, trong trường hợp đây là tiền đặt cọc, Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Về tiêu chí xác định khoản tiền giao nhận là “tiền cọc” hay “tiền trả trước”, Bộ luật dân sự năm 2005 không rõ ràng nhưng Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định tại Điều 29 rằng “trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước”. Ở đây, nếu các bên “không xác định rõ là tiền đặt cọc” thì đây được coi là tiền trả trước nhưng khái niệm “không xác định rõ là tiền đặt cọc” lại không rõ vì một thứ có thể “rõ” với người này nhưng lại “không rõ” với người khác. Trong vụ việc trên, hợp đồng có đoạn “Trường hợp dự án không thể thực hiện đúng vào ngày 31/12/2014 (…), bên A sẽ không thanh toán bất kỳ chi phí dịch vụ nào trong điều khoản thanh toán cho bên B và bên B phải hoàn trả lại 50% giá trị hợp đồng tiền đặt cọc mà bên A đã thanh toán cho bên B sau khi ký hợp đồng”. Ở đoạn này, chúng ta thấy các bên dùng từ “tiền đặt cọc” và Nguyên đơn theo hướng đây là đặt cọc còn Bị đơn theo hướng đây không là đặt cọc. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định “về bản chất, việc Nguyên đơn chuyển cho Bị đơn tiền không phải là nhằm bảo đảm giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự” và “các Bên không đặt ra cơ chế xử lý tiền cọc, bồi hoàn gấp đôi tiền cọc theo khoản 2 Điều 358 của Bộ luật dân sự năm 2005, mà chỉ đề ra thu hồi lại số tiền thanh toán trước do Bị đơn chưa thực hiện đúng nội dung hợp đồng”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định số tiền trên “được coi là tiền trả trước mà không phải là tiền cọc”. Đặt cọc được xác lập sau khi hợp đồng được giao kết thì chỉ “để bảo đảm thực hiện hợp đồng”. Để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng thì việc đặt cọc này phải có nội hàm hướng bên nhận tài sản tới việc thực hiện hợp đồng, tức phải có nội dung “răn đe” để bên nhận thực hiện hợp đồng. Sự răn đe này có thể được nêu trong thỏa thuận và trong trường hợp không có thỏa thuận thì pháp luật đã có quy định như khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Do đó, đôi khi các bên chỉ xác định là “tiền đặt cọc” và không nói về sự răn đe thì Tòa án vẫn coi là đặt cọc (vì sự răn đe đã được luật hóa nếu không có thỏa thuận khác) [1] . Trong vụ việc trên, các bên đã nêu là “tiền đặt cọc” nhưng tại sao Hội đồng Trọng tài lại không coi là đặt cọc? Thực ra, ngoài việc nêu “tiền đặt cọc”, các bên còn thể hiện tại đoạn trên của hợp đồng rằng khi bên B (Bị đơn) không thực hiện đúng hợp đồng thì “bên B phải hoàn trả lại 50% giá trị hợp đồng tiền đặt cọc”. Cơ chế xử lý theo ý chí của các bên như vừa nêu không thể hiện tính “răn đe” đối với B vì, khi không thực hiện đúng hợp đồng, bên nhận tiền chỉ phải hoàn trả lại 50% giá trị hợp đồng tiền đặt cọc. Chính yếu tố vừa nêu đã loại trừ bản chất “đặt cọc” của khoản tiền giao nhận cho dù trong hợp đồng có từ “đặt cọc” (đối với Bên B). Ở đây, nếu các bên chỉ nêu “đặt cọc” và không có đoạn bổ sung nêu trên, chúng ta coi là đặt cọc (và áp dụng quy định mang tính răn đe theo Bộ luật dân sự như đã trình bày ở trên). Tuy nhiên, do các bên thỏa thuận thêm theo hướng khác làm triệt tiêu sự răn đe nên khoản tiền này không được coi là đặt cọc. Do đó, để không phiền phức về khoản tiền mà các doanh nghiệp đã giao nhận, nếu các bên coi đây là đặt cọc thì nên nói rõ là đặt cọc và không có nội dung loại trừ tính chất răn đe của việc giao nhận tiền. Ngược lại, nếu các bên không coi đây là tiền đặt cọc thì không nên sử dụng từ “đặt cọc” và nêu rõ là tiền trả trước để không gây khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng như vụ việc nêu trên đã thể hiện. [1] Về chủ đề này tại Tòa án, xem Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ - Bản án và bình luận bản án , Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam 2017 (tái bản lần thứ ba), Bản án số 186 - 189.
#099 | Tiền giao nhận là tiền đặt cọc nên áp dụng quy định về đặt cọc
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty N (Nguyên đơn - Bên cho thuê) và Công ty Y (Bị đơn - Bên thuê) ký hợp đồng thuê lại đất dài hạn. Sau khi ký hợp đồng, Bên thuê đã chuyển cho Bên cho thuê 2.283.090.459 VND. Do một số lý do, Bên cho thuê chấm dứt hợp đồng thuê và các bên tranh chấp với nhau về khoản tiền đã giao nhận. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài xác định trong số tiền nêu trên có tiền đặt cọc nên đã áp dụng quy định tương ứng của đặt cọc. Bài học kinh nghiệm : Trong vụ việc trên, Bên cho thuê (Nguyên đơn) cho rằng toàn bộ số tiền trên là tiền thanh toán hợp đồng còn Bên thuê (Bị đơn) cho rằng trong số tiền trên có 1.476.051.915 VND (tương đương với 93.795 USD) là tiền đặt cọc nên khi Bên cho thuê chấm dứt hợp đồng thì phải áp dụng các quy định của đặt cọc. Việc xác định khoản tiền trên là tiền đặt cọc hay không có hệ quả pháp lý rất quan trọng. Nếu là tiền đặt cọc thì khi bên nhận cọc (Bên cho thuê) không tiếp tục thực hiện hợp đồng, bên nhận cọc phải hoàn trả số tiền này đồng thời phải chịu phạt một khoản tiền tương đương trên cơ sở khoản 2 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Còn nếu không là tiền cọc mà chỉ là tiền thanh toán bình thường của hợp đồng, Bên cho thuê chỉ phải hoàn trả khoản tiền trên (có thể cấn trừ với các nghĩa vụ cùng loại khác) và không phải chịu phạt một khoản tiền tương đương khi Bên cho thuê từ chối tiếp tục thực hiện hợp đồng. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xác định “khoản tiền 1.476.051.915 VND tương đương 93.795 USD là khoản tiền đặt cọc để đảm bảo thực hiện hợp đồng”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài theo hướng “do giữa các Bên không có thỏa thuận nào khác liên quan tới việc trả lại tiền cọc, Hội đồng Trọng tài nhận thấy Nguyên đơn cần phải trả lại khoản đặt cọc và trả thêm một khoản tiền tương đương với khoản tiền đặt cọc nữa cho Bị đơn”. Như vậy, Hội đồng Trọng tài xác định trong khoản tiền trên có tiền 1.476.051.915 VND tương đương 93.795 USD là khoản tiền đặt cọc nên kéo theo hệ quả của việc đặt cọc. Để đạt được kết quả trên, Hội đồng Trọng tài dựa vào các yếu tố sau: thứ nhất , đã có việc chuyển khoản tiền trên từ Bên thuê sang Bên cho thuê sau khi hợp đồng được ký kết; thứ hai , trong hợp đồng, các Bên đã thỏa thuận “Để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng thuê lại đất này, Bên B đã đặt cọc 15% tổng số tiền thuê lại diện tích đất 37.000 m 2 cho Bên A, cụ thể là 93.795 USD. Số tiền đặt cọc này sẽ được khấu trừ vào tiền thuê lại đất”. Trong hoạt động thương mại, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp như trên (ngay sau khi giao kết hợp đồng, một bên giao cho bên kia một khoản tiền). Sau đó các bên có bất đồng quan điểm về bản chất của quan hệ giao tiền. Thường thì bên giao tiền coi đây là đặt cọc (như trong vụ việc trên, Bị đơn coi là tiền cọc) và bên nhận tiền không coi đây là đặt cọc mà chỉ coi là tiền thanh toán hợp đồng (như trong vụ việc trên, Nguyên đơn cho rằng chỉ là khoản tiền thanh toán). Theo khoản 1 Điều 358 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 328 Bộ luật dân sự năm 2015, “đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự”. Để có đặt cọc, chúng ta phải có việc giao tài sản giữa các bên (giao thực tế như chuyển tiền từ bên này sang bên kia hoặc giao pháp lý như A nợ B một khoản tiền từ quan hệ trước và sau đó B và A thỏa thuận khoản tiền này là tiền đặt cọc cho quan hệ hợp đồng khác) và việc giao tài sản này là để bảo đảm việc giao kết hay thực hiện hợp đồng. Ở đây, đã có việc giao tài sản nên đã đáp ứng được điều kiện thứ nhất. Còn về mục đích của việc giao tài sản, hợp đồng đã thể hiện rất rõ là “để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng”. Do đó, việc Hội đồng Trọng tài xác định có quan hệ đặt cọc là phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Thực tế, loại tranh chấp như trong vụ việc trên rất phổ biến và đôi khi cơ quan tài phán xác định có quan hệ đặt cọc nhưng đôi khi lại xác định không có quan hệ đặt cọc. Về chủ đề này, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định tại Điều 29 rằng “trường hợp một bên trong hợp đồng giao cho bên kia một khoản tiền mà các bên không xác định rõ là tiền đặt cọc hoặc tiền trả trước thì số tiền này được coi là tiền trả trước”. Điều đó có nghĩa là nguy cơ coi khoản tiền giao nhận không là đặt cọc khá cao nếu các bên không rõ về mục đích của việc giao nhận tiền. Do đó, rút kinh nghiệm từ vụ việc trên, doanh nghiệp nên thận trọng về khoản tiền giao nhận: Nếu xác định đây là tiền đặt cọc thì cần nêu rõ mục đích của việc giao nhận là để đảm bảo việc giao kết/thực hiện hợp đồng như các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng trong vụ việc được phân tích.
#098 | Người chịu trách nhiệm về hàng thiếu so với hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Liên quan đến người chịu trách nhiệm về thiếu hàng, Hội đồng Trọng tài xác định thuộc trách nhiệm của Bên bán. Bài học kinh nghiệm : Có thể xảy ra trường hợp Bên bán và Bên mua giao nhận hàng thông qua người vận chuyển nhưng sau đó hàng bị thiếu. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Trong vụ việc trên, Bên bán là Việt Nam, Bên mua là Trung Quốc và hàng được vận chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc qua đường biển. Chứng thư giám định kết luận tình trạng bên ngoài container bình thường và trước khi mở 02 containers, các cặp chì (seals) của 02 containers đều còn nguyên, chưa bị đứt (intack), và số các cặp chì đều phù hợp với chứng từ giao hàng nhưng, khi mở 02 containers, giám định viên và hải quan sở tại thấy hàng được xếp từ cuối containers ra đến cửa, nhưng nhìn từ sàn lên nóc containers thì chỉ có một nửa container là có hàng và hàng không được xếp đầy container. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Theo Hội đồng Trọng tài, “việc đếm hàng, chất xếp hàng, đóng hàng vào container và niêm chì cho container do Bị đơn làm. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu hụt số lượng và trọng lượng hàng hóa trong các containers này khi các containers được dỡ xuống cảng đích trong điều kiện còn nguyên niêm chì”. Ngoài r Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên bán) để mua cao su. Hàng đã được chuyển sang Trung Quốc cho Bên mua nhưng Bên mua cho rằng có việc thiếu hàng. Liên quan đến người chịu trách nhiệm về thiếu hàng, Hội đồng Trọng tài xác định thuộc trách nhiệm của Bên bán. Bài học kinh nghiệm : Có thể xảy ra trường hợp Bên bán và Bên mua giao nhận hàng thông qua người vận chuyển nhưng sau đó hàng bị thiếu. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Trong vụ việc trên, Bên bán là Việt Nam, Bên mua là Trung Quốc và hàng được vận chuyển từ Việt Nam sang Trung Quốc qua đường biển. Chứng thư giám định kết luận tình trạng bên ngoài container bình thường và trước khi mở 02 containers, các cặp chì (seals) của 02 containers đều còn nguyên, chưa bị đứt (intack), và số các cặp chì đều phù hợp với chứng từ giao hàng nhưng, khi mở 02 containers, giám định viên và hải quan sở tại thấy hàng được xếp từ cuối containers ra đến cửa, nhưng nhìn từ sàn lên nóc containers thì chỉ có một nửa container là có hàng và hàng không được xếp đầy container. Trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng? Theo Hội đồng Trọng tài, “việc đếm hàng, chất xếp hàng, đóng hàng vào container và niêm chì cho container do Bị đơn làm. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm về tình trạng thiếu hụt số lượng và trọng lượng hàng hóa trong các containers này khi các containers được dỡ xuống cảng đích trong điều kiện còn nguyên niêm chì”. Ngoài ra, Hội đồng Trọng tài còn xác định “khi trên B/L ghi rõ Shipper’s load, stow, count and seal” và containers được người vận chuyển giao cho người nhận hàng tại cảng đích trong điều kiện còn nguyên kẹp chì (seal intact) mà hàng trong các containers bị thiếu về số lượng thì người xếp hàng (trong trường hợp này là người bán) phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hụt này”. Trong vụ việc trên, có ba chủ thể liên quan đến số lượng hàng có tranh chấp là Bên bán, Bên mua và Bên vận chuyển. Tuy nhiên, không có thông tin nào cho thấy có lỗi của phía Bên vận chuyển vì tình trạng lúc nhận và tình trạng lúc giao hàng là như nhau. Do đó, phần trách nhiệm chỉ còn lại là thuộc Bên bán hay Bên mua. Ở đây, Bên bán là người đưa hàng vào containers và khi nhận containers thì hàng còn thiếu nên Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán chịu trách nhiệm về hàng thiếu là thuyết phục. Đây là bài học hữu ích cho các doanh nghiệp tiến hành mua bán nhưng có trung gian là người vận chuyển. a, Hội đồng Trọng tài còn xác định “khi trên B/L ghi rõ Shipper’s load, stow, count and seal” và containers được người vận chuyển giao cho người nhận hàng tại cảng đích trong điều kiện còn nguyên kẹp chì (seal intact) mà hàng trong các containers bị thiếu về số lượng thì người xếp hàng (trong trường hợp này là người bán) phải chịu trách nhiệm về sự thiếu hụt này”. Trong vụ việc trên, có ba chủ thể liên quan đến số lượng hàng có tranh chấp là Bên bán, Bên mua và Bên vận chuyển. Tuy nhiên, không có thông tin nào cho thấy có lỗi của phía Bên vận chuyển vì tình trạng lúc nhận và tình trạng lúc giao hàng là như nhau. Do đó, phần trách nhiệm chỉ còn lại là thuộc Bên bán hay Bên mua. Ở đây, Bên bán là người đưa hàng vào containers và khi nhận containers thì hàng còn thiếu nên Hội đồng Trọng tài xác định Bên bán chịu trách nhiệm về hàng thiếu là thuyết phục. Đây là bài học hữu ích cho các doanh nghiệp tiến hành mua bán nhưng có trung gian là người vận chuyển.
#097 | Nghĩa vụ của bên bán khi hàng không đúng hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua bán với Công ty Indonesia (Bị đơn). Bên bán Indonesia đã giao hàng nhưng Bên mua Việt Nam từ chối nhận hàng đồng thời yêu cầu Bên bán hoàn trả tiền cũng như chịu chi phí quản lý hàng. Quan điểm của Bên mua đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Hai bên đã ký hợp đồng mua bán và hợp đồng này là hợp pháp. Bên mua Việt Nam đã thanh toán một khoản tiền và Bên bán thông báo hàng hóa đã đến cảng Cát Lái. Trên cơ sở hồ sơ, Hội đồng Trọng tài xác định “Bị đơn đã giao hàng không đảm bảo chất lượng cho Nguyên đơn theo quy định của hợp đồng”. Từ thực trạng này, chúng ta thấy có những hệ quả khá nghiêm trọng cho Bên bán. Thứ nhất , theo khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, “bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận”. Tuy nhiên, trong vụ việc trên, Bên mua Việt Nam từ chối nhận hàng và yêu cầu Hội đồng Trọng tài xem xét. Cụ thể, trên cơ sở khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng”, Hội đồng Trọng tài kết luận “Nguyên đơn (Bên mua) được quyền từ chối nhận lô hàng có tranh chấp”. Th ứ hai , theo Hội đồng Trọng tài, vi phạm của Bên bán được coi là “vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” vì “khi hàng không đạt chất lượng nhập khẩu thì Bên mua không đạt được mục đích trong việc giao kết hợp đồng nhập khẩu”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “yêu cầu của Nguyên đơn (xin hủy hợp đồng) là có cơ sở để được chấp nhận”. Vẫn theo Hội đồng Trọng tài, trên cơ sở khoản 2 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 về “Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng” theo đó “các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng”, “Bên mua (Nguyên đơn) được quyền yêu cầu Bên bán (Bị đơn) hoàn trả những gì Bên mua đã thanh toán cho Bên bán nên yêu cầu trên của Nguyên đơn (Bên mua) là có cơ sở được chấp nhận ở mức 95.800 USD tương đương với 1.995.035.000 VND”. Th ứ ba , trên cơ sở khoản 3 Điều 314 Luật Thương mại năm 2005 về “Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng” theo đó “Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này” và Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” theo đó “trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”, Hội đồng Trọng tài buộc “Bên bán (Bị đơn) phải bồi thường cho Bên mua (Nguyên đơn) tổng thiệt hại nêu trên là 196.625.775 VND”. Thực tế, khoản tiền bồi thường này tương ứng với “các chi phí lưu container, thẩm định, bốc xếp, lệ phí chứng từ, vệ sinh container, vận chuyển, phí trọng tài và thù lao cho luật sư”. Như vậy, khi bên bán giao hàng không đúng hợp đồng làm cho bên mua không đạt được mục đích khi giao kết thì bên bán phải gánh chịu rất nhiều hệ quả: thứ nhất là phải nhận lại hàng hóa, thứ hai là phải hoàn trả tiền hàng đã nhận, thứ ba là phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc không thực hiện đúng hợp đồng. Điều đó cũng có nghĩa là Bên mua được quyền từ chối nhận hàng và đòi lại khoản tiền đã thanh toán [1] . Đây là những hệ quả (nghĩa vụ) rất nặng cho bên bán và cũng là quyền của bên mua. Do đó, bên bán cần cẩn trọng trong việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng và phải biết rằng họ có nhiều nghĩa vụ rất nặng nề trong trường hợp giao hàng không đúng hợp đồng. [1] . Đây là hướng giải quyết trong một Phán quyết trọng tài khác. Cụ thể, sau khi khẳng định “Bị đơn đã vi phạm điều khoản chất lượng hàng hóa theo quy định của hợp đồng”, trên cơ sở Điều 39 Luật thương mại năm 2005 theo đó “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp, không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng hoá mà bên bán đã giao cho bên mua” , Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC khẳng định “việc Nguyên đơn tuyên bố từ chối nhận hàng và đòi lại tiền hàng đã thanh toán là có căn cứ pháp luật”.
#096 | Bên mua có quyền từ chối thanh toán khi hàng không đúng hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên bán). Phía Việt Nam đã nhận hàng nhưng hàng không đúng hợp đồng nên đã yêu cầu hủy hợp đồng để không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Bài học kinh nghiệm : Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005, Điều 385 Bộ luật dân sự năm 2015). Khi hợp đồng được giao kết hợp pháp thì các bên phải thực hiện trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005 theo đó “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng”. Quy định này được kế thừa lại tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Đối với hợp đồng mua bán hợp pháp như nêu trên, bên mua có nghĩa vụ trả tiền đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, trong vụ việc nêu trên, bên mua đã từ chối thực hiện việc thanh toán và Hội đồng Trọng tài đã xác định “Bên mua (Nguyên đơn) không có trách nhiệm (thực hiện nghĩa vụ) thanh toán cho Bên bán (Bị đơn)”. Vậy, làm thế nào Bên mua đạt được kết quả như vừa nêu? Thực ra, để được kết quả như nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã tiến hành các công việc sau: Thứ nhất , xác định Bên bán đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng. Cụ thể, Hội đồng Trọng tài khẳng định “đủ căn cứ để kết luận Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn không đúng chủng loại hàng hóa như đã thỏa thuận trong hợp đồng”. Thứ hai , “căn cứ quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng Bị đơn đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ của hợp đồng” vì “mục đích của việc giao kết hợp đồng của Nguyên đơn là có được hàng (nguyên liệu) của Bị đơn để sử dụng ngay cho nhà máy của Nguyên đơn sản xuất sản phẩm bán cho khách hàng khác. Bị đơn đã vi phạm hợp đồng (vi phạm nghĩa vụ giao hàng: giao hàng không phù hợp với quy định của hợp đồng), việc này đã gây thiệt hại cho Nguyên đơn: không có nguyên liệu để sản xuất cung cấp cho khách hàng, nhiều khách hàng trì hoãn đơn đặt hàng chính thức, mất nhiều khách hàng. Hội đồng Trọng tài nhận định rằng việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn đã khiến cho Nguyên đơn không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Thứ ba , “căn cứ điểm b khoản 4 Điều 312 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng yêu cầu áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng của Nguyên đơn trong trường hợp này là hợp lý và được chấp nhận”. Thứ tư , trên cơ sở quy định về hủy bỏ hợp đồng, Hội đồng Trọng tài kết luận Bên mua (Nguyên đơn) không có trách nhiệm thanh toán tiền theo hợp đồng. Như vậy, khi bên bán không giao hàng đúng như thỏa thuận thì sẽ kéo theo những hệ quả nhất định và một trong các hệ quả là bên mua được yêu cầu hủy bỏ hợp đồng để không phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đây là điều mà doanh nghiệp cần lưu ý: Đối với doanh nghiệp là bên bán thì cần giao hàng đúng thỏa thuận để không bị gánh chịu hệ quả của hủy bỏ hợp đồng (ngoài hệ quả nêu trên, Hội đồng Trọng tài còn khẳng định “Bị đơn phải chịu mọi chi phí liên quan tới việc lấy lại hàng hóa đã giao cho Nguyên đơn”). Còn đối với doanh nghiệp là bên mua, họ biết rằng họ có biện pháp phòng vệ rất hiệu quả là hủy bỏ hợp đồng để không phải thanh toán nếu việc giao hàng không đúng hợp đồng làm cho mục đích của họ không đạt được khi giao kết.
#095 | Bên mua có quyền từ chối nhận hàng không đúng hợp đồng
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên bán). Phía Việt Nam đã nhận hàng nhưng hàng không đúng như hợp đồng nên từ chối nhận hàng. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là từ chối nhận hàng. Bài học kinh nghiệm : Không hiếm trường hợp doanh nghiệp gặp phải hoàn cảnh hàng hóa giao cho doanh nghiệp không phù hợp với hợp đồng và vụ việc nêu trên là một ví dụ. Cụ thể, Hội đồng Trọng tài “kết luận rằng Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn hàng hóa không phù hợp với hợp đồng”. Từ việc Bên bán không giao hàng đúng như hợp đồng, Bên mua có được quyền từ chối nhận hàng không? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn yêu cầu “buộc Bị đơn nhận lại lô hàng không đúng qui định hợp đồng” và đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Cụ thể, theo Hội đồng Trọng tài, “Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn hàng hóa không phù hợp với hợp đồng nói tại Mục 5, phần Phân tích sự việc trên đây, căn cứ khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài công nhận Nguyên đơn có quyền từ chối nhận lô hàng xếp trong Container số GLDU3172874 mà Bị đơn đã giao cho Nguyên đơn”. Lưu ý thêm rằng hướng giải quyết trên cũng được vận dụng trong vụ việc khác tại VIAC. Chẳng hạn, sau khi khẳng định “Nguyên đơn đã thể hiện chủ định mua hàng để sản xuất giấy”, “Bị đơn đã biết và phải biết rằng mục đích mua hàng của Nguyên đơn là để sản xuất giấy” trong khi “Nguyên đơn nêu rằng thông số về độ trắng quá thấp (chỉ đạt 49,78% thay vì tối thiểu 82%), cộng với các thông số khác không đạt yêu cầu, đã làm cho hàng không sử dụng được vào mục đích làm giấy”, “căn cứ vào khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài cho rằng Nguyên đơn có quyền từ chối nhận hàng của Bị đơn”. Khi giải quyết, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài viện dẫn khoản 2 Điều 39 Luật Thương mại năm 2005. Đây chính là cơ sở để Bên mua được từ chối nhận hàng hóa vì điều khoản này quy định “Bên mua có quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hoá không phù hợp với hợp đồng”. Như vậy, doanh nghiệp mua hàng biết rằng họ được quyền từ chối nhận hàng nếu hàng hóa giao cho doanh nghiệp không phù hợp với hợp đồng. Đây là công cụ phòng vệ hiệu quả đối với tình huống hàng hóa chuyển cho doanh nghiệp nhưng lại không phù hợp với hợp đồng.