Trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại

#076 | Thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài

#076 | Thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty vận tải T (Nguyên đơn - Bên mua bảo hiểm) ký hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm N (Bị đơn - Bên bảo hiểm). Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận áp dụng pháp luật của Anh và thỏa thuận này đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế thương mại, chúng ta đôi khi gặp trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh hợp đồng. Thỏa thuận loại này có được chấp nhận không? Trong vụ việc trên, các Bên thỏa thuận tại Điều 2 trong hợp đồng rằng Luật áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm này là Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010, Bộ luật dân sự năm 2005 và Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005. Những điểm Bộ luật hàng hải chưa quy định thì áp dụng Luật, Tập quán bảo hiểm hàng hải Anh. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, Bị đơn viện dẫn pháp luật của Anh và, căn cứ vào Điều 1.2 của hợp đồng, Điều 6.1 Quy tắc bảo hiểm ITC 1995, Điều 246.1.a Bộ luật Hàng hải Việt Nam, Điều 39.5 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh quốc, Bị đơn cho rằng yêu cầu đòi bồi thường tổn thất của Nguyên đơn là không có căn cứ pháp lý. Ở đây, các Bên thỏa thuận khả năng áp dụng pháp luật của Anh và Bị đơn đã khai thác pháp luật của Anh để bảo vệ quyền lợi của mình. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài xét rằng “căn cứ Khoản 2 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012), khoản 4 Điều 3 và khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 và thỏa thuận giữa Nguyên đơn và Bị đơn, pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn là pháp luật Việt Nam và Luật, Tập quán bảo hiểm hàng hải Anh. Tại Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Nguyên đơn và Bị đơn cho rằng tranh chấp này phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm về yêu cầu thanh toán bồi thường cho rủi ro được bảo hiểm nên luật áp dụng là Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ luật Hàng hải năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, Nguyên đơn và Bị đơn thống nhất áp dụng Điều khoản bảo hiểm thời hạn thân tàu của Hội những người bảo hiểm London ngày 01/11/1995 (gọi tắt là Quy tắc bảo hiểm ITC). Vì vậy, Quy tắc bảo hiểm ITC cũng là luật áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa Nguyên đơn và Bị đơn”. Phần trên cho thấy Hội đồng Trọng tài chấp nhận thỏa thuận của các Bên về khả năng áp dụng pháp luật của Anh và, trong khi giải quyết, Hội đồng Trọng tài cũng viện dẫn tới pháp luật của Anh. Chẳng hạn, liên quan đến rủi ro được bảo hiểm, Hội đồng Trọng tài cho rằng “rủi ro mắc cạn của tàu TB 05 do gặp sóng to, gió lớn làm trôi neo là rủi ro được bảo hiểm thuộc trường hợp tổn thất hay tổn hại của đối tượng bảo hiểm gây ra bởi Hiểm họa của biển, sông, hồ hoặc vùng nước có thể hoạt động được quy định tại Mục I phần Tóm tắt các điều khoản bảo hiểm của Đơn bảo hiểm. Rủi ro này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 244, Khoản 1 Bộ luật hàng hải cũng như Điều 55, Khoản 1 Luật Bảo hiểm hàng hải Anh”. Như vậy, các Bên thỏa thuận khả năng áp dụng pháp luật của Anh và thỏa thuận này được Hội đồng Trọng tài chấp nhận (Hội đồng Trọng tài cũng đã khai thác pháp luật của Anh khi giải quyết tranh chấp). Thực ra, khả năng thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài đã được Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ghi nhận tại khoản 2 Điều 14 theo đó “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn”. Điều đó có nghĩa là Luật cho phép các Bên lựa chọn áp dụng pháp luật và ở đây các Bên đã lựa chọn áp dụng cả pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam. Đối với khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài, điều luật trên áp dụng “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài” và, do đó, thỏa thuận áp dụng pháp luật Anh nêu trên chỉ được chấp nhận “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài” [1] . Từ đó, cần phải xác định quan hệ tranh chấp có yếu tố nước ngoài hay không? Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không định nghĩa tranh chấp có yếu tố nước ngoài và quy định viện dẫn tới Bộ luật dân sự năm 2005 tại khoản 4 Điều 3 theo đó “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”. Thực tế, Bộ luật dân sự có đưa ra những dấu hiệu để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài. Cụ thể, theo Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005, “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 vì quy định “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài” (khoản 2 Điều 663). Quy định trên đưa ra hai loại dấu hiệu nhận biết quan hệ có yếu tố nước ngoài: Loại dấu hiệu mang tính chủ quan tập trung vào chủ thể tham gia vào quan hệ và loại dấu hiệu mang tính khách quan tập trung vào xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ hay tài sản liên quan đến quan hệ. Ở vụ việc trên, cả hai Bên đều là công ty Việt Nam. Do đó, không thể dựa vào yếu tố chủ quan để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài. Vậy, Hội đồng Trọng tài đã xác định có yếu tố nước ngoài dựa vào yếu tố nào? Thực ra, đối tượng được bảo hiểm là chiếc tàu của Bên mua bảo hiểm bị mắc cạn tại Philipines và điều này cho thấy quan hệ giữa các Bên liên quan đến tài sản ở nước ngoài. Điều đó có nghĩa là quan hệ giữa các Bên đang có tranh chấp có yếu tố nước ngoài nên, trên cơ sở Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, các Bên được thỏa thuận chọn áp dụng pháp luật nước ngoài. Ở đây, chúng ta thấy các Bên đã lựa chọn hai hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo hiểm là pháp luật Việt Nam và pháp luật của Anh trong trường hợp pháp luật Việt Nam không có quy định. Khả năng thỏa thuận chọn 2 hệ thống pháp luật như vậy không được ghi nhận một cách minh thị tại Điều 14 nêu trên. Tuy nhiên, với nội hàm “Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn”, chúng ta có thể hiểu rằng pháp luật hiện hành cho phép các bên thỏa thuận như trên và việc Hội đồng Trọng tài chấp nhận thỏa thuận của các Bên là phù hợp với quy định. Lưu ý là, đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài như vụ việc trên, khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 còn quy định “nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất”. Quy định này trao cho Hội đồng Trọng tài quyền xác định pháp luật điều chỉnh và, trong thực tế, Hội đồng Trọng tài thường dựa vào nhiều yếu tố để xác định pháp luật điều chỉnh. Ví dụ, một Phán quyết trọng tài khác ghi “Hợp đồng có tranh chấp có mối quan hệ với Việt Nam vì một bên là Việt Nam, hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam và Người thụ hưởng L/C là một doanh nghiệp Việt Nam, một số chứng từ do cơ quan Việt Nam cấp. Hợp đồng đang tranh chấp cũng có mối quan hệ với Trung Quốc vì một bên là Trung Quốc, hàng hóa được giao tại Trung Quốc, Ngân hàng thanh toán L/C là một Ngân hàng Trung quốc, phân tích hàng hóa do một tổ chức của Trung Quốc tiến hành. Tuy nhiên, trong Đơn khởi kiện, Nguyên đơn theo hướng áp dụng “ luật Việt Nam ” và Đơn khởi kiện đã được gửi đến Bị đơn một cách hợp lệ nhưng Bị đơn không có ý kiến khác. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”. Như vậy, đối với quan hệ có yếu tố nước ngoài, doanh nghiệp biết rằng họ được quyền thỏa thuận áp dụng pháp luật cho quan hệ của mình. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, Hội đồng Trọng tài sẽ tự xác định hệ thống pháp luật thích ứng. Để chắc chắn về hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ với đối tác, doanh nghiệp nên thỏa thuận về pháp luật điều chỉnh như các bên đã làm trong vụ việc trên và thỏa thuận này được Trọng tài chấp nhận.   [1] Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, các bên không có sự lựa chọn vì khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã khẳng định “Đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”.

#075 | Xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hợp đồng  

#075 | Xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hợp đồng  

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty B (nguyên đơn) và Công ty L (Bị đơn) xác lập với nhau hai hợp đồng. Ở đây, Nguyên đơn là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và người ký hợp đồng trong phần của Nguyên đơn là một cá nhân có quốc tịch nước ngoài. Mặc dù vậy, Hội đồng Trọng tài xác định quan hệ không có yếu tố nước ngoài nên vận dụng các quy định về quan hệ không có yếu tố nước ngoài. Bài học kinh nghiệm : Với sự mở cửa, doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các quan hệ có yếu tố nước ngoài trở thành phổ biến. Hiện nay, chúng ta có những quy định riêng cho quan hệ có yếu tố nước ngoài và quy định riêng cho quan hệ không có yếu tố nước ngoài. Chẳng hạn, nếu là quan hệ có yếu tố nước ngoài, các bên được thỏa thuận chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ của họ (pháp luật Việt Nam hay pháp luật khác) trên cơ sở khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 theo đó “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất”. Ngược lại, đối với quan hệ không có yếu tố nước ngoài, cần phải áp dụng pháp luật Việt Nam trên cơ sở khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 theo đó “đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”. Như vậy, việc xác định một quan hệ có yếu tố nước ngoài hay không là quan trọng, kéo theo những hệ quả nhất định. Về chủ đề này, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không cho biết dấu hiệu nào được coi là yếu tố nước ngoài mà chỉ quy định tại khoản 4 Điều 3 rằng “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”. Do đó, cần phải xác định yếu tố nước ngoài trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định rằng “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 vì quy định “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài” (khoản 2 Điều 663). Quy định trong hai Bộ luật dân sự vừa nêu đưa ra hai loại dấu hiệu để nhận diện quan hệ có yếu tố nước ngoài: Loại thứ nhất mang yếu tố khách quan như dựa vào tài sản trong quan hệ và loại thứ hai dựa vào chủ thể trong quan hệ. Đối với yếu tố khách quan, chúng ta sẽ có hội xem xét trong chủ đề sau còn ở đây chúng ta chỉ quan tâm tới yếu tố chủ thể. Trong quan hệ trên, Nguyên đơn là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vậy đây có là dấu hiệu để khẳng định quan hệ có yếu tố nước ngoài không? Theo Hội đồng Trọng tài, “Nguyên đơn được thành lập theo pháp luật Việt Nam và đăng ký hoạt động tại Việt Nam trong khi đó theo khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh ”. Căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự nêu trên, việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (cho dù là 100%) không là dấu hiệu để xác định có yếu tố nước ngoài khi doanh nghiệp này được đăng ký, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Hướng giải quyết cho hoàn cảnh tương tự trên không thay đổi khi áp dụng Luật Doanh nghiệp năm 2014 vì khoản 9 Điều 4 Luật này quy định “doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam”. Trong vụ việc trên, trong những người ký hai hợp đồng có người nước ngoài là ông D. Đây có là dấu hiệu để xác định hợp đồng có yếu tố nước ngoài không? Theo Hội đồng Trọng tài, “người này ký hai hợp đồng với tư cách đại diện Nguyên đơn nên chủ thể tham gia vào hợp đồng có tranh chấp không là ông D mà là Nguyên đơn (người được đại diện). Vì vậy, chủ thể xác lập hai hợp đồng có tranh chấp không là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài . Đồng thời, hai hợp đồng có tranh chấp được xác lập và thực hiện ở Việt Nam nên Hội đồng Trọng tài nhận thấy quan hệ có tranh chấp không có yếu tố nước ngoài”. Ở đây, có người nước ngoài nhưng người nước ngoài không là một bên trong hợp đồng vì chỉ là người đại diện cho một bên Việt Nam trong hợp đồng nên hợp đồng được xác lập không có yếu tố nước ngoài. Kết hợp hai phân tích nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã đi đến kết luận “do quan hệ hợp đồng có tranh chấp không có yếu tố nước ngoài nên căn cứ vào khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nêu trên, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp quan hệ hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn cũng phù hợp với nội dung của hai hợp đồng có tranh chấp vì, trong hai hợp đồng, các Bên khẳng định áp dụng pháp luật Việt Nam”. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp biết rằng quan hệ có yếu tố nước ngoài có những quy định đặc thù so với quan hệ không có yếu tố nước ngoài. Về dấu hiệu để nhận biết quan hệ có yếu tố nước ngoài hay không thì cần căn cứ vào Bộ luật dân sự và việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng được thành lập, hoạt động ở Việt Nam cũng như việc tồn tại người đại diện nước ngoài không là yếu tố để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài. *Tuyên bố bảo lưu:  Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

#074 | Quyền lợi của các bên trong trường hợp văn bản chồng chéo

#074 | Quyền lợi của các bên trong trường hợp văn bản chồng chéo

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty V (Nguyên đơn) mua bảo hiểm tại Công ty B (Bị đơn), thời hạn bảo hiểm là 12 tháng từ ngày 25/04/2013 đến ngày 25/04/2014 và việc thanh toán được chia thành 4 kỳ trong đó đối với kỳ 3 làm phát sinh tranh chấp thanh toán chậm nhất vào ngày 10/11/2013. Sau đó, các bên có tranh chấp về thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm xuất phát từ việc Bên mua bảo hiểm không thanh toán kỳ 3 như thỏa thuận. Trước sự không thống nhất giữa Luật và Thông tư về chấm dứt hợp đồng bảo hiểm, Hội đồng Trọng tài đã loại trừ Thông tư và áp dụng Luật theo hướng Bên mua bảo hiểm vẫn được bồi thường. Bài học kinh nghiệm : Tối ngày 25/11/2013, tàu của Nguyên đơn có tai nạn và, sau khi nhận được hướng dẫn của Bị đơn về việc nộp phí bảo hiểm Kỳ 3, ngày 26/11/2013 Nguyên đơn đã nộp phí bảo hiểm Kỳ 3. Đến ngày 28/11/2013, Nguyên đơn nhận được thông báo của Bị đơn với nội dung Bị đơn không chấp nhận bảo hiểm do hợp đồng bảo hiểm đã chấm dứt hiệu lực (và trả lại phí bảo hiểm kỳ 3). Vấn đề đặt ra là ở thời điểm tàu có tai nạn hợp đồng bảo hiểm đã chấm dứt chưa? Nếu hợp đồng đã chấm dứt ở thời điểm này, Bên mua bảo hiểm không được bồi thường; còn ngược lại thì Bên mua bảo hiểm vẫn được bồi thường. Trong vụ việc trên, thời hạn bảo hiểm là 1 năm và được chia thành 4 kỳ bắt đầu từ ngày 25/04/2013. Do đó, kỳ 3 có thời hạn từ ngày 25/10/2013 đến ngày 25/01/2014. Ở kỳ 3, theo hợp đồng, Bên mua bảo hiểm phải đóng bảo hiểm chậm nhất vào ngày 10/11/2013. Cũng theo hợp đồng, “ Trong mọi trường hợp, nếu quá ngày nộp phí theo các kỳ hạn trên, Người được bảo hiểm không nộp phí bảo hiểm hoặc nộp phí bảo hiểm không đầy đủ cho Người bảo hiểm và các bên không có thỏa thuận bằng văn bản về việc gia hạn nộp phí thì hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt hiệu lực vào ngày kế tiếp ngày cuối cùng của kỳ phí đến hạn thanh toán nói trên ”. Đối với kỳ hạn này, việc đóng phí bảo hiểm chậm nhất là ngày 10/11/2013 nhưng đến 26/11/2013 Bên mua bảo hiểm mới đóng phí bảo hiểm của kỳ 3. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm chấm dứt (do không đóng phí bảo hiểm) thì, theo thỏa thuận nêu trên, hợp đồng bảo hiểm “ chấm dứt hiệu lực vào ngày kế tiếp ngày cuối cùng của kỳ phí đến hạn thanh toán ”, tức ngày 26/01/2014. Nói cách khác, theo thỏa thuận của các bên, nếu hợp đồng chấm dứt thì chấm dứt vào ngày 26/01/2014. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, để từ chối bảo hiểm, Bị đơn đã viện dẫn Điểm 1.1 Khoản 1 Điều 18 Thông tư số 125/2012/TT-BTC ngày 30/07/2012  của Bộ Tài chính với nội dung “trong trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm sẽ tự chấm dứt hiệu lực bảo hiểm vào ngày kế tiếp ngày bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm”. Quy định này xác định hợp đồng bảo hiểm chấm dứt hiệu lực “vào ngày kế tiếp ngày bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm theo thoả thuận” và, nếu áp dụng vào hoàn cảnh nêu trên, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt vào 11/10/2013 do thời điểm cuối cùng phải thanh toán là ngày 10/10/2013. Quy định này không nêu là các bên được thỏa thuận thời điểm khác (trong khi đó, theo thỏa thuận của các bên, hợp đồng chấm dứt ở thời điểm muộn hơn là ngày 26/01/2014). Liên quan đến thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, khoản 2 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 còn quy định “Ngoài các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự, hợp đồng bảo hiểm còn chấm dứt trong các trường hợp sau đây: Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác”. Quy định này xác định hợp đồng bảo hiểm chấm dứt “bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm” nhưng lại cho phép “các bên có thoả thuận khác” trong khi đó các bên đã có thỏa thuận khác về việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Nếu chiếu theo quy định này, các bên được thỏa thuận khác và thỏa thuận nêu trên phù hợp với Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010. Điều đó có nghĩa là giữa Thông tư và Luật có sự khác biệt nhau và Hội đồng Trọng tài cũng khẳng định điều này khi xét rằng “về cùng một vấn đề nhưng hai văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm có những quy định khác nhau”. Vấn đề tiếp theo là phải giải quyết sự khác nhau này như thế nào? Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã xác định “do Luật kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực pháp lý cao hơn Thông tư số 125/2012/TT-BTC (văn bản dưới luật), căn cứ khoản 2 Điều 83 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hội đồng Trọng tài áp dụng Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010 để giải quyết vụ tranh chấp”. Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã ưu tiên áp dụng Luật kinh doanh bảo hiểm so với Thông tư và việc này dựa vào quy định theo đó “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Trong thực tế, việc doanh nghiệp phải đối mặt với sự chồng chéo văn bản như nêu trên là phổ biến. Vụ việc trên liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhưng hoàn cảnh tương tự (xung đột giữa các văn bản về cùng một vấn đề) có thể tồn tại đối với những hợp đồng khác. Trước những hoàn cảnh như vậy, doanh nghiệp biết rằng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ được ưu tiên áp dụng như Hội đồng Trọng tài đã làm trong vụ việc nêu trên. Điều đó có nghĩa là, trong trường hợp chồng chéo văn bản về cùng một vấn đề, quyền lợi của các bên được xác định theo văn bản có hiệu lực cao hơn.  

#073 | Hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp văn bản pháp luật thay đổi

#073 | Hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp văn bản pháp luật thay đổi

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký kết hợp đồng đăng ký và mua cổ phần vào năm 2009. Trong hợp đồng, các Bên thỏa thuận việc Bị đơn mua lại cổ phần khi hội đủ một số điều kiện. Khi có tranh chấp, Bị đơn yêu cầu áp dụng một Nghị định năm 2012 nhưng không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Với sự mở cửa cùng với sự phát triển của xã hội, pháp luật Việt Nam thay đổi rất nhanh; nhiều văn bản mới có quy định khác quy định trước nên dẫn đến việc xung đột pháp luật trong thời gian. Đối với trường hợp này, áp dụng pháp luật nào? Pháp luật có hiệu lực tại thời điểm hợp đồng được giao kết hay pháp luật có hiệu lực tại thời điểm thực hiện, tranh chấp hợp đồng? Trong vụ việc nêu trên, Bị đơn không chấp nhận mua lại cổ phần mà mình đã bán cho Nguyên đơn và một trong những lý do của việc không chấp nhận này liên quan đến Nghị định số 58/2012/NĐ-CP. Cụ thể, Bị đơn cho rằng không được quyền mua lại Cổ phần của Nguyên đơn làm cổ phiếu quỹ theo Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012 và việc Nguyên đơn buộc Bị đơn mua lại Cổ phần là trái quy định của pháp luật, cụ thể là khoản 2 Điều 38 Nghị định 58/2012/NĐ-CP ngày 20/07/2012. Ngoài ra, Bị đơn còn lập luận rằng “ mặc dù hợp đồng đăng ký và mua cổ phần ký kết trước ngày NĐ được ban hành nhưng khi phát sinh các giao dịch liên quan đến hợp đồng này, NĐ58 và các văn bản hiện hành phải được áp dụng để xem xét tính hợp pháp của giao dịch đó ”. Như vậy, Bị đơn đã viện dẫn một Nghị định được ban hành năm 2012 để phủ nhận một nội dung trong hợp đồng được xác lập năm 2009. Điều đó có nghĩa là Bị đơn đã theo hướng áp dụng quy định được ban hành sau khi hợp đồng được giao kết để phủ nhận một nội dung có trong hợp đồng, cụ thể để xác định tính không hợp pháp của việc mua lại cổ phần. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “lập luận này của Bị đơn là mâu thuẫn với nguyên tắc hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật. Nếu theo cách lập luận của Bị đơn, thì các văn bản quy phạm pháp luật luôn luôn có hiệu lực trở về trước trong các quan hệ hợp đồng. Bởi lẽ, các giao dịch phát sinh từ hợp đồng luôn xảy ra sau thời điểm các Bên đã giao kết, và như vậy theo cách lập luận này của Bị đơn, văn bản áp dụng để xem xét tính hiệu lực của hợp đồng, là văn bản có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hợp đồng mà không phải là văn bản có hiệu lực tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điều này không đúng với nguyên tắc hiệu lực bất hồi tố (không có hiệu lực trở về trước) của văn bản quy phạm pháp luật và có thể dẫn đến tình trọng hợp đồng không có hiệu lực trong nhiều trường hợp. Tính hợp pháp và hiệu lực của các thỏa thuận hợp đồng phải được xem xét theo các văn bản quy phạm pháp luật vào thời điểm các Bên giao kết. Các hậu quả pháp lý phát sinh từ các thỏa thuận hợp pháp (theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật vào thời điểm giao kết) có giá trị bắt buộc cho các bên cam kết. Từ các phân tích trên, Hội đồng Trọng tài kết luận, nghĩa vụ mua lại cổ phần của Bị đơn phát sinh từ các cam kết trong hợp đồng, theo quy định của pháp luật vào thời điểm năm 2009 không bị hạn chế bởi các quy định (Điều 38) của Nghị định 58/2012/NĐ-CP, là văn bản chỉ có hiệu lực từ năm 2012”. Như vậy, qua vụ việc trên doanh nghiệp biết rằng tính hợp pháp và hiệu lực của các thỏa thuận hợp đồng phải được xem xét theo các văn bản quy phạm pháp luật vào thời điểm các bên giao kết nếu không có quy định khác. Điều đó có nghĩa là, nếu không có quy định khác, tính hợp pháp của hợp đồng không bị ràng buộc bởi các quy định được ban hành sau khi hợp đồng được xác lập. Hướng này giúp không làm xáo trộn các dự liệu của các bên và giúp không làm vô hiệu hóa các giao dịch đã được xác lập hợp pháp theo các quy định ở thời điểm giao kết. Doanh nghiệp cũng lưu ý thêm rằng, trong vụ việc trên, văn bản mới khắt khe hơn văn bản cũ (theo văn bản trước thì thỏa thuận mua lại được chấp nhận nhưng, theo văn bản mới, thỏa thuận mua lại này chưa chắc đã được chấp nhận) và cần áp dụng văn bản cũ. Tuy nhiên, cũng có thể xảy ra trường hợp văn bản mới có các quy định thuận lợi hơn văn bản cũ (chẳng hạn văn bản cũ yêu cầu thỏa thuận phải công chứng, chứng thực nhưng văn bản mới bỏ bớt yêu cầu này) và thực tiễn tại Tòa án có hướng áp dụng văn bản mới để bảo vệ hợp đồng không được giao kết hợp pháp theo văn bản cũ nhưng phù hợp với văn bản mới [1] .     [1] Xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án , Sđd, Bản án số 20 - 22.

#072 | Áp dụng lẽ công bằng điều chỉnh hợp đồng

#072 | Áp dụng lẽ công bằng điều chỉnh hợp đồng

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài và Công ty Việt Nam ký hợp đồng hợp tác triển khai một dự án. Công ty nước ngoài chuyển tiền cọc và công ty Việt Nam thực hiện một số công việc để triển khai dự án. Cuối cùng, dự án không diễn ra như mong muốn và hai bên chấm dứt hợp tác. Về hệ quả, công ty Việt Nam yêu cầu chia sẻ chi phí đã đầu tư vào dự án. Thực tế, Hội đồng Trọng tài đã áp dụng “lẽ công bằng” để giải quyết yêu cầu này. Bài học kinh nghiệm : Bộ luật dân sự năm 2015 đã có một sự thay đổi lớn trong tư duy lập pháp khi quy định tại khoản 2 Điều 14 rằng “ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng ”. Quy định này buộc cơ quan tài phán phải giải quyết những vấn đề mà chúng ta chưa có điều luật để áp dụng. Ở đây, quy định vừa nêu đề cập đến “Tòa án” nhưng tư duy tương tự cũng cần được vận hành cho Trọng tài. Thực tế, vấn đề chia sẻ chi phí đầu tư nêu trên chưa có điều luật để áp dụng, các bên cũng không có thỏa thuận về chủ đề này và Hội đồng Trọng tài đã xem xét giải quyết yêu cầu trên cơ sở lẽ công bằng. Trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng, Bộ luật dân sự năm 2015 có điểm mới tích cực nữa là đã bổ sung thêm cơ sở để tạo hướng giải quyết và một trong các bổ sung đó là “lẽ công bằng”. Cụ thể, theo Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015, “ trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng ”. Ở đây, lẽ công bằng đã chính thức được ghi nhận ở Việt Nam trong văn bản quan trọng là Bộ luật dân sự năm 2015 và đây là văn bản được áp dụng cho cả tranh chấp kinh doanh, thương mại như cho tranh chấp nêu trên. Thực tế, tranh chấp giữa các bên trong vụ việc nêu trên là tranh chấp giữa những chủ thể đều tham gia vào “hoạt động thương mại” và Hội đồng Trọng tài đã áp dụng “lẽ công bằng” như chúng ta sẽ thấy ở phần dưới đây. Trong quá trình bàn thảo về việc đưa “lẽ công bằng” vào Bộ luật dân sự năm 2015 như một nguồn bổ sung, nhiều ý kiến cho rằng cần đưa ra định nghĩa “lẽ công bằng”. Thực tế, trước sự đa dạng của quan hệ cần sự điều chỉnh và trước việc không muốn giới hạn vai trò của “lẽ công bằng” cũng như thông lệ chung trên thế giới là không đưa ra định nghĩa lẽ công bằng, Bộ luật dân sự năm 2015 đã không có điều luật đưa ra định nghĩa “lẽ công bằng”. Về phía mình, khoản 3 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng “ lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó ”. Đây là quy định trong tố tụng tại Tòa án nên không có giá trị bắt buộc đối với tố tụng trọng tài và mang tính gợi mở về lẽ công bằng. Trong vụ việc nêu trên, Hội đồng Trọng tài khai thác “lẽ công bằng” để xem xét yêu cầu về chia sẻ chi phí đầu tư khi dự án hợp tác bất thành. Cụ thể, theo Hội đồng Trọng tài, “Hợp đồng nguyên tắc không có quy định cụ thể về chủ thể chịu chi phí phát sinh từ việc thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng. Thực tế, trong hợp đồng nguyên tắc, các Bên có nêu các công việc mà các Bên phải thực hiện và cũng có quy định về Chấm dứt hợp đồng tại Điều 4 nhưng các Bên không quy định Bên nào phải chịu chi phí phát sinh từ việc thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc. Các Bên cũng không quy định về chia sẻ rủi ro giữa các Bên phát sinh từ việc thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc trong trường hợp các Bên không thể xác lập hợp đồng thuê lại (mặt bằng). Pháp luật cũng không có quy định cụ thể về chi phí trong trường hợp như Nguyên đơn và Bị đơn đang có trong vụ tranh chấp. Do đó, Hội đồng Trọng tài sẽ xem xét yêu cầu của Bị đơn trên cơ sở của lẽ công bằng phù với Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng ”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài đã xác định “ sẽ là thuyết phục và hợp với lẽ công bằng khi cả hai Bên cùng chia sẻ những tổn thất theo hướng mỗi Bên chịu 50% tổn thất xuất phát từ việc có đầu tư vào thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc nhưng mục đích cuối cùng là xác lập hợp đồng thuê lại mặt bằng không thể diễn ra ”. Đây là hướng giải quyết phù hợp với quy định hiện hành và cho thấy tầm quan trọng của lẽ công bằng trong việc bổ khuyết quy định cũng như bổ khuyết hợp đồng. Đối với doanh nghiệp, tốt hơn hết là doanh nghiệp cùng đối tác dự báo hết các vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng và đưa ra hướng giải quyết trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu đã có một hợp đồng và một vấn đề chưa có điều luật áp dụng và chưa được dự báo trong hợp đồng, “ lẽ công bằng ” rất hữu hiệu để giải quyết bất đồng giữa các bên như chúng ta đã thấy ở trên. *Tuyên bố bảo lưu:  Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

#071 | Áp dụng Án lệ điều chỉnh quan hệ hợp đồng  

#071 | Áp dụng Án lệ điều chỉnh quan hệ hợp đồng  

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng tư vấn quản lý dự án và quản lý xây dựng dự án. Bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo. Do đó, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại và lãi của khoản tiền bồi thường. Khoản tiền bồi thường đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận nhưng yêu cầu tiền lãi của tiền bồi thường không được chấp nhận trên cơ sở vận dụng Án lệ đã được Toà án nhân dân tối cao công bố. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, trường hợp doanh nghiệp vi phạm hợp đồng hay bị vi phạm hợp đồng xảy ra khá phổ biến và bồi thường thiệt hại là một trong những chế tài được áp dụng thường xuyên. Trong trường hợp doanh nghiệp đã yêu cầu bồi thường thiệt hại và có dự định yêu cầu lãi suất chậm thanh toán đối với khoản tiền bồi thường, doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ Án lệ 09/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao về việc không chấp nhận lãi suất tính trên yêu cầu bồi thường thiệt hại trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Trong vụ việc trên, trên cơ sở Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại” và khoản 2 Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005 (nay là khoản 2 Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015) theo đó “ Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” , Điều 315 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “ trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại ”, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “ việc Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thông báo trước 56 ngày tương đương với 2 tháng nên thiệt hại mà Nguyên đơn được bồi thường sẽ tương đương với khoản lợi ích mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng trong khoảng thời gian đó theo h ợp đồng và làm tròn 62.500.000 VND ”. Ngoài yêu cầu bồi thường thiệt hại đã được chấp nhận ở trên, Nguyên đơn còn yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền lãi đối với khoản tiền bồi thường. Cụ thể, Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn “ thanh toán bồi thường thiệt hại do quá hạn ”. Ở đây, Nguyên đơn cho rằng “ thời hạn cuối phải thanh toán các khoản bồi thường là ngày 28/03/2017 + 21 ngày = 18/04/2017, tỷ lệ bồi thường là 1%/ngày, thời gian quá hạn tính đến ngày Nguyên đơn nộp đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện : 14/03/2018 là 330 ngày ”. Từ đó, Nguyên đơn xác định số tiền thanh toán bồi thường thiệt hại do quá hạn 330 ngày là 750.258.240 VND x 1% x 330 ngày = 2.475.852.192 VND. Trong Bản làm rõ ngày 09/05/2018, Nguyên đơn khẳng định “ ngày mà quyền và lợi ích hợp pháp của Nguyên đơn bị xâm phạm là 28/03/2017, thời hạn cuối phải thanh toán tiền bồi thường là 18/04/2017, tính đến ngày 14/03/2018 là 330 ngày là thời gian chậm trễ thanh toán bồi thường ”. Như vậy, bên cạnh yêu cầu bồi thường thiệt hại, Nguyên đơn còn yêu cầu tiền lãi chậm thanh toán trên khoản tiền bồi thường. Thực tế, Bị đơn phản đối yêu cầu này với nhận định “ không có cơ sở phát sinh nghĩa vụ thanh toán tiền bồi thường thiệt hại do quá hạn thanh toán với số tiền là 2.475.852.192 VND (750.258.240 VND x 1% x 330 ngày) theo yêu cầu của Nguyên đơn ”. Từ đó, vấn đề đặt ra là yêu cầu lãi chậm thanh toán trên khoản tiền bồi thường thiệt hại có được chấp nhận không? Theo Hội đồng Trọng tài, yêu cầu này là không có cơ sở chấp nhận dựa trên nội dung của Án lệ của Toà án nhân dân tối cao. Cụ thể, “ Hội đồng Trọng tài xét thấy pháp luật hiện hành của Việt Nam không có quy định về lãi do chậm thanh toán tiền bồi thường. Bên cạnh đó, theo Án lệ số 09/2016/AL của Tòa án nhân dân tối cao, tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định. Do đó, Hội đồng Trọng tài xét thấy yêu cầu nêu trên của Nguyên đơn là không có cơ sở để được chấp nhận ”. Nội dung vừa nêu cho thấy Hội đồng Trọng tài đã vận dụng án lệ để giải quyết tranh chấp hợp đồng phát sinh giữa các bên. Thực tế, khả năng áp dụng Án lệ đã chính thức được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam và điển hình nhất là trong Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể, theo Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015, “ trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng ”. Ở đây, Án lệ được áp dụng khi “ quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng ” và “ không thể áp dụng tương tự pháp luật ”. Trong vụ việc trên, vấn đề tính lãi đối với tiền bồi thường không được quy định trong văn bản, không được các bên thoả thuận và cũng không có tập quán trong khi có Án lệ về chủ đề này. Vì vậy, việc Hội đồng Trọng tài áp dụng Án lệ để giải quyết tranh chấp là phù hợp với quy định. Với nội dung trên, chúng ta thấy không phải vấn đề nào phát sinh trong đời sống cũng có quy định, cũng có tập quán hay có thoả thuận điều chỉnh. Đối với trường hợp này, chúng ta không thể từ chối giải quyết trên cơ sở khoản 2 Điều 12 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “ Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng ”. Quy định này đương nhiên được áp dụng cho Tòa án cũng như không loại trừ khả năng áp dụng tương tự tại Trọng tài. Ở đây, trước việc không có quy định cụ thể để áp dụng mà không được từ chối giải quyết, cơ quan tài phán buộc phải có cơ chế xử lý và theo hướng áp dụng Án lệ là một cơ chế xử lý. Thực tế, việc áp dụng này được quy định trong văn bản chung là Bộ luật dân sự như nêu trên nên được áp dụng tại Toà án cũng như ngoài Toà án như tại Trọng tài. Hướng này là điểm mới được bổ sung trong Bộ luật dân sự năm 2015, hữu ích cho thực tiễn như chúng ta đã thấy thông qua vụ việc được nghiên cứu. Đó là điểm doanh nghiệp cần lưu ý đối với những vấn đề mà hợp đồng của doanh nghiệp chưa quy định, điều luật cụ thể chưa có để điều chỉnh nhưng điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhân lực vào việc tìm hiểu án lệ đã tồn tại để khai thác sao cho bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình.   *Tuyên bố bảo lưu:  Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

#070 | Áp dụng tương tự pháp luật  

#070 | Áp dụng tương tự pháp luật  

12/26/2023

  Tình tiết sự kiện : Công ty nước ngoài (Nguyên đơn) và Công ty Việt Nam (Bị đơn) ký hợp đồng hợp tác để triển khai một dự án. Công ty nước ngoài chuyển tiền cọc; phía công ty Việt Nam sử dụng tiền cọc và thực hiện một số công việc nêu trong thỏa thuận. Cuối cùng, dự án không diễn ra như mong muốn và hai bên chấm dứt hợp tác. Về hệ quả, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng chia sẻ tổn thất mà hai bên phải gánh chịu khi đầu tư vào dự án. Ở đây, phía công ty Việt Nam đã đưa ra các số liệu về tổn thất mà họ đã có và, để xác định tổn thất của công ty nước ngoài, Hội đồng Trọng tài đã phải “ áp dụng tương tự pháp luật ”. Bài học kinh nghiệm : Trong quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau, việc một vấn đề phát sinh giữa các bên chưa có điều luật để áp dụng và chưa được dự báo trong hợp đồng khá phổ biến và vụ việc trên là một ví dụ. Ở đây, không có điều luật nào quy định cụ thể về xác định tổn thất giữa các bên trong hoàn cảnh nêu trên và hợp đồng giữa các bên cũng không có điều khoản nào dự báo về chủ đề này. Từ đó, chúng ta phải tìm hướng xử lý và một trong các công cụ để xử lý là “áp dụng tương tự pháp luật” được ghi nhận trong Bộ luật dân sự (được áp dụng cho cả quan hệ kinh doanh thương mại như cho vụ việc nêu trên). Theo khoản 1 Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 (kế thừa từ Bộ luật dân sự trước đây), “ trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự ”. Để hướng dẫn Tòa án vận dụng cơ chế này trong tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “ khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự ”. Quy định vừa nêu áp dụng cho tố tụng tại Tòa án, không có giá trị bắt buộc đối với tố tụng tại Trọng tài nhưng mang tính gợi mở cho việc áp dụng tương tự pháp luật và, thực tế trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài đã vận dụng cơ chế đó như chúng ta thấy ở phần dưới. Ở đây, theo Hội đồng Trọng tài, “ Bị đơn đã đầu tư vào việc thực hiện những công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc nhưng nay hợp đồng nguyên tắc không còn tiếp tục nữa, hợp đồng thuê lại tài sản mà Nguyên đơn và Bị đơn mong muốn không diễn ra như dự kiến. Do đó, Bị đơn có tổn thất khi hợp đồng nguyên tắc không được duy trì, hợp đồng thuê lại tài sản không diễn ra như mong muốn. Nói cách khác, Bị đơn đầu tư vào việc thực hiện các công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc để tiến hành ký hợp đồng cho thuê lại tài sản với Nguyên đơn nhưng hợp đồng cho thuê lại này không thể xảy ra nên Bị đơn có tổn thất ”. Đối với Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài xác định “ Nguyên đơn cũng đầu tư vào việc thực hiện công việc nêu trong hợp đồng nguyên tắc bằng cách chuyển cho Bị đơn một khoản tiền là tiền đặt cọc, để cho Bị đơn sử dụng khoản tiền đặt cọc mà Bị đơn không phải trả lãi cho Nguyên đơn nên đây cũng là tổn hại của Nguyên đơn khi chấm dứt hợp đồng ”. Về mức tổn thất của Nguyên đơn, Hội đồng trọng tài theo hướng “ Nguyên đơn chuyển tiền cọc cho Bị đơn sử dụng mà Bị đơn không phải trả lãi cho Nguyên đơn và nay việc thuê lại mặt bằng không thể diễn ra như mong muốn của các Bên nên đây cũng là tổn thất đối với Nguyên đơn (do Nguyên đơn chuyển tiền cọc cho Bị đơn nên Nguyên đơn đã mất khả năng khai thác, sử dụng khoản tiền đã chuyển và đó chính là tổn thất của Nguyên đơn) ". Trong pháp luật Việt Nam, tổn thất phát sinh từ việc mất khả năng khai thác một khoản tiền được tính theo lãi chậm trả. Chẳng hạn, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, đối với “ các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước ” thì thiệt hại là “ khoản lãi ” và “ Trường hợp các khoản tiền đó không phải là khoản vay có lãi thì khoản lãi được tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp không có thỏa thuận theo quy định của Bộ luật dân sự” (khoản 4 Điều 23). Áp dụng tương tự quy định của pháp luật được quy định tại Điều 6 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên, ở đây Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn 12.666.780.000 VND từ năm 2016 đến nay là khoảng 2 năm nên khoản tổn thất của Nguyên đơn xuất phát từ việc chuyển tiền cọc cho Bị đơn ước tính là tiền lãi tương ứng với thời gian 02 năm của khoản tiền cọc Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn: 2 năm x 10%/năm (mức lãi khi không có thỏa thuận theo Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015) x 12.666.780.000 VN D = 2.533.356.000 VN D ”. Ở đây, quy định đã tồn tại trong văn bản là quy định trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước điều chỉnh khoản tiền của người dân nộp vào ngân sách nhà nước (người dân không sử dụng được tiền này và thông thường Nhà nước khai thác khoản tiền này phục vụ cho công việc của mình). Còn hoàn cảnh mà chúng ta đang xem xét là việc một bên giao tiền cho bên kia nên bên giao tiền không có khả năng khai thác khoản tiền của mình nữa và bên nhận tiền khai thác khoản tiền này phục vụ công việc của họ. Hoàn cảnh vừa nêu trong vụ việc được nghiên cứu (chưa có quy định cụ thể để áp dụng và chưa được các bên thỏa thuận hướng giải quyết) có tính chất tương tự với hoàn cảnh được Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nêu trên quy định nên việc Hội đồng Trọng tài áp dụng tương tự pháp luật là phù hợp với quy định. Đối với doanh nghiệp, tốt hơn hết là doanh nghiệp cùng đối tác dự báo hết các vấn đề có thể xảy ra trong hợp đồng và đưa ra hướng giải quyết cụ thể cho các vấn đề đó trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu đã có một hợp đồng và một vấn đề chưa có điều luật áp dụng và hợp đồng chưa dự báo như chúng ta thấy trong vụ việc nêu trên, “ áp dụng tương tự pháp luật ” là công cụ hiệu quả để giải quyết bất đồng giữa các bên. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết được có quy định điều chỉnh hoàn cảnh tương tự như hoàn cảnh mà doanh nghiệp đang gặp phải và, để có được điều đó, doanh nghiệp cần đầu tư về kiến thức pháp lý thì mới có thể khai thác hiệu quả cơ chế “ áp dụng tương tự pháp luật ”.  

#069 | Áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015

#069 | Áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Ngày 06/11/2015, Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị. Nguyên đơn đã tiến hành giao hàng năm 2016 nhưng, cho tới thời điểm tháng 08/2017, Bị đơn mới chỉ thanh toán cho Nguyên đơn một phần tiền hàng, chưa thanh toán đợt 3 và đợt 4. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài đã không áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 mà áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 để giải quyết tranh chấp. Bài học kinh nghiệm : Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại chịu sự điều chỉnh của nhiều đạo luật khác nhau như Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật kinh doanh bất động sản… Trong các đạo luật này, Bộ luật dân sự là luật chung, có phạm vi điều chỉnh rất rộng (những vấn đề cơ bản của hợp đồng đều được Bộ luật dân sự điều chỉnh) nên doanh nghiệp cần có sự quan tâm thích đáng. Thực tế, Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 như thay đổi điều cấm của “pháp luật” bằng điều cấm của “luật”, hình thức “theo quy định của pháp luật” bằng hình thức “theo quy định của luật”, mức lãi trần từ 150% lãi suất cơ bản nâng thành 20%/năm… Nếu hợp đồng được xác lập sau ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực (tức từ ngày 01/01/2017), chúng ta không gặp khó khăn trong việc áp dụng Bộ luật dân sự và, trong trường hợp như vừa nêu, Bộ luật dân sự năm 2015 được áp dụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp hợp đồng được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực nhưng có tranh chấp cần giải quyết sau ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực như trường hợp nêu trong tình tiết sự kiện. Vấn đề nêu trên đã được Bộ luật dân sự năm 2015 đề cập đến tại Điều 688 theo đó “ giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này ” (điểm b khoản 1). Với quy định vừa nêu, khả năng áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 cho giao dịch (hợp đồng) được xác lập trước ngày 01/01/2017 đã được ghi nhận nhưng với điều kiện. Cụ thể, thứ nhất , hợp đồng “ chưa được hoặc đang được thực hiện ”, “ nội dung phù hợp với quy định của ” Bộ luật dân sự năm 2015 và “hình thức” của hợp đồng cũng “phù hợp với quy định của Bộ luật này”. Ở vụ việc trên, hợp đồng có tranh chấp được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực và vấn đề đặt ra là hợp đồng này có đáp ứng các điều kiện áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên không? Theo Hội đồng Trọng tài, “ thời điểm Nguyên đơn và Bị đơn giao kết hợp đồng và Phụ lục hợp đồng ngày 06/11/2015 là thời điểm Bộ luật dân sự năm 2005 còn hiệu lực ”, “ Tính đến thời điểm Bộ luật dân sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực (tức 01/01/2017) hợp đồng giữa các Bên được thực hiện một phần: Nguyên đơn bàn giao, nghiệm thu máy móc, thiết bị; Bị đơn thanh toán đợt 1 và đợt 2. Sau ngày 01/01/2017 cho tới nay, Bị đơn vẫn chưa thanh toán đợt 3 và đợt 4 cho Nguyên đơn. Hội đồng Trọng tài xác định đến ngày Bộ luật dân sự năm 2015 bắt đầu có hiệu lực, hợp đồng này đang được thực hiện, chưa thực hiện xong ”. Với nội dung vừa nêu, chúng ta thấy hợp đồng đang được thực hiện, chưa chấm dứt nên điều kiện đầu tiên nêu trên để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 đã được đáp ứng. Đối với Hội đồng Trọng tài, hợp đồng còn có hình thức và nội dung phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 nên đáp ứng các điều kiện còn lại để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên. Ở đây, “ về hình thức, Hội đồng Trọng tài thấy rằng hợp đồng phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Bởi lẽ, hợp đồng được lập bằng văn bản giữa người có thẩm quyền của Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không buộc phải công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký nên hoàn toàn phù hợp với các quy định về hình thức của hợp đồng ” và “ về nội dung của h ợp đồng, Hội đồng Trọng tài nhận thấy quan hệ hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn là quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Nội dung hợp đồng có các điều khoản quy định tại Điều 398 Bộ luật dân sự năm 2015. Hơn nữa, nội dung của hợp đồng cũng phù hợp với các Điều luật từ 430 đến Điều 445 của Bộ luật dân sự năm 2015 (quy định về h ợp đồng mua bán tài sản trong Chương thứ XVI: Một số hợp đồng thông dụng). Do vậy, nội dung của hợp đồng phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 ”. Như vậy, hợp đồng có tranh chấp được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực nhưng đáp ứng các điều kiện để áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, như Hội đồng Trọng tài đã khẳng định, “ từ các phân tích trên đây, Hội đồng Trọng tài xác định h ợp đồng giữa các Bên là giao dịch dân sự có hình thức và nội dung phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, h ợp đồng này đang được thực hiện nên có cơ sở để áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để xem xét, giải quyết Vụ tranh chấp ”. Ở đây, chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015: Áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 cho cả hợp đồng được xác lập trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Đây là điểm doanh nghiệp cần lưu ý khi đã xác lập giao dịch trước ngày 01/01/2017 nhưng có tranh chấp cần giải quyết sau thời điểm này. Thực tế, việc áp dụng hồi tố Bộ luật dân sự năm 2015 như nêu trên có giá trị thực tiễn rất lớn mà doanh nghiệp nên biết vì Bộ luật dân sự năm 2015 có nhiều điểm thay đổi tích cực so với Bộ luật dân sự trước đây. Chẳng hạn, trong vụ việc trên, hợp đồng có nêu giá bằng ngoại tệ nên thuộc trường hợp vô hiệu khi áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 (do vi phạm điều cấm của “pháp luật” xuất phát từ vi phạm Pháp lệnh ngoại hối) nhưng hợp đồng này lại hợp pháp khi áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 (Bộ luật dân sự năm 2015 ghi nhận giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của “luật” trong khi Pháp lệnh ngoại hối không là “luật” mà là văn bản dưới luật). Thực tế, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng hợp đồng có hiệu lực với nhận xét “việc quy đổi giá trị của hợp đồng từ tiền USD ra tiền VND trong phụ lục hợp đồng số 01 không phù hợp với quy định tại Pháp lệnh ngoại hối năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) của Ủy ban thường vụ Quốc hội và cũng không phù hợp với Thông tư số 32/2013 của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, theo Điều 4 (Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật) Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, pháp lệnh và thông tư không phải là văn bản luật. Do vậy, Phụ lục hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “Hợp đồng và Phụ lục hợp đồng có hiệu lực pháp luật”.

#068 | Chủ thể của hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân

#068 | Chủ thể của hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân

12/26/2023

Tình tiết sự kiện : Công ty T (Nguyên đơn - Bên bán) xác lập hợp đồng mua bán thép với Doanh nghiệp tư nhân S (Bị đơn - Bên mua). Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định chủ thể chịu trách nhiệm là chủ doanh nghiệp tư nhân. Bài học kinh nghiệm : Nhìn một cách tổng thể, Việt Nam ghi nhận hai loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Hiện nay doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân là doanh nghiệp tư nhân và có những điểm rất đặc thù liên quan tới chủ thể. Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” (quy định này được nhắc lại tại khoản 4 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo đó “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”) và, theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, “đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi về người đại diện theo hướng ghi nhận đại diện cá nhân và đồng đại diện vì quy định “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” (khoản 1 Điều 134). Trên cơ sở Bộ luật dân sự, chúng ta hiểu rằng người đại diện và người được đại diện là hai chủ thể khác nhau, người đại diện nhân danh và vì lợi ích “của người khác”. Kết hợp với quy định về doanh nghiệp tư nhân nêu trên, chúng ta có thể suy luận rằng chủ doanh nghiệp tư nhân (người đại diện) và doanh nghiệp tư nhân (người được đại diện) là hai chủ thể khác nhau và quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập (chủ doanh nghiệp tư nhân) không là quyền, nghĩa vụ của người đại diện mà là của người được đại diện (tức doanh nghiệp tư nhân) trên cơ sở khoản 4 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập” và “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện”. Tuy nhiên, cách nhìn nhận trên không thể hiện đúng thực tế hiện nay về doanh nghiệp tư nhân và vụ việc trên cho phép làm rõ chủ thể chịu trách nhiệm về giao dịch do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập. Ở đây, hợp đồng được xác lập giữa Bên bán và doanh nghiệp tư nhân thông qua chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là Bên mua. Từ hợp đồng này, Bên mua phải trả tiền cho Bên bán và thực tế Bên bán khởi kiện yêu cầu trả tiền hàng và lãi chậm thanh toán. Ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của Bên mua? Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài theo hướng “buộc Bị đơn là Bà X, Chủ doanh nghiệp tư nhân S phải thanh toán số tiền hàng còn thiếu là 1.535.477.000 VND cho Nguyên đơn là Công ty T”. Điều đó có nghĩa là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán chính là “chủ doanh nghiệp tư nhân”, chính là cá nhân “Bà X”. Trong vụ việc này, Hội đồng Trọng tài xác định chủ doanh nghiệp tư nhân (cá nhân bà X) là người phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng, trong vụ việc khác, Hội đồng Trọng tài xác định cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền phát sinh từ hợp đồng. Cụ thể, trong tranh chấp về hợp đồng mua bán được xác lập giữa một công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên mua) và một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có ông C là chủ doanh nghiệp (Nguyên đơn - Bên bán), Hội đồng Trọng tài đã quyết định “chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C đối với Bị đơn. Cụ thể: Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn (…)”. Ở vụ việc này, người thụ hưởng là Nguyên đơn và Nguyên đơn chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân: Theo Hội đồng Trọng tài, “xác định Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C - là Nguyên đơn trong Vụ tranh chấp”. Như vậy, hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân thông qua người đại diện là chủ doanh nghiệp tư nhân nhưng chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng lại là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp tư nhân. Hướng giải quyết này tương thích với các quy định trong Luật Doanh nghiệp như quy định theo đó “doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005, khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Với những quy định trong Luật Doanh nghiệp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân như nghĩa vụ phát sinh đối với chính cá nhân chủ doanh nghiệp [1] . Nói một cách hình tượng, chúng ta có thể cho rằng doanh nghiệp tư nhân chỉ là chiếc áo mà cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân sử dụng nên chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Từ những thông tin trên, đối tác của doanh nghiệp tư nhân cần biết rằng người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp như Hội đồng Trọng tài đã phán xét ở trên và, khi có tranh chấp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “Chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”.   [1] Quan điểm này được thể hiện rõ tại khoản 2 Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo đó “sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác” (khoản 1 Điều 187 Luật Doanh nghiệp năm 2014).  

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI