Trọng tài thương mại
#049 | Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng Tư vấn quản lý dự án và quản lý xây dựng dự án. Bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo. Do đó, Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt hợp đồng và yêu cầu này đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong trường hợp doanh nghiệp đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không thực hiện nghĩa vụ thông báo theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu việc không thông báo gây ra thiệt hại cho phía bên kia. Trong vụ việc trên, hợp đồng có tranh chấp được xác lập một cách hợp pháp và các Bên đều thừa nhận Bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng. Trong Hồ sơ, không có tài liệu nào cho thấy Bị đơn đã gửi Nguyên đơn một văn bản thể hiện rõ ràng rằng Bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng và, trong quá trình tố tụng, các Bên cũng thống nhất là Bị đơn không gửi cho Nguyên đơn bất kỳ thông báo nào về việc Bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng trong khi đó Điều 27 ở phần Điều kiện chung của hợp đồng có nội dung khẳng định “Chủ đầu tư có thể đình chỉ tất cả hoặc một phần của dịch vụ hoặc chấm dứt hợp đồng bằng thông báo ít nhất 56 ngày cho Tư vấn… ”. Từ đó Hội đồng Trọng tài “khẳng định Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt Hợp đồng (Bị đơn không vi phạm khi chấm dứt hợp đồng vì điều khoản trên cho phép Bị đơn được chấm dứt hợp đồng nhưng Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thông báo về việc đơn phương chấm dứt - đình chỉ Hợp đồng)”. Ở đây, Bị đơn được chấm dứt hợp đồng nhưng phải thông báo ít nhất 56 ngày nhưng Bị đơn đã không thực hiện việc thông báo. Về hệ quả của việc vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt - đình chỉ hợp đồng, theo khoản 2 Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 428 Bộ luật dân sự năm 2015, “Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” và, theo Điều 315 Luật Thương mại năm 2005, “trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại”. Ở đây, việc vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt, đình chỉ (và cả hủy bỏ) hợp đồng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường nếu tồn tại thiệt hại và hướng này tương thích với quy định chung về bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Thật vậy, theo Điều 303 Luật Thương mại năm 2005, “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Như vậy, để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cần hội đủ 03 điều kiện vừa nêu và các yêu cầu này cũng phù hợp với Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” (Điều 360). Về mức bồi thường, Nguyên đơn yêu cầu “số tiền bồi thường của giai đoạn bảo trì là 750.258.240 VND”. Về phía mình, Hội đồng Trọng tài “xét thấy vi phạm được xem xét ở đây là Bị đơn không thông báo cho Nguyên đơn về việc Bị đơn đơn phương chấm dứt hợp đồng nên thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại phát sinh từ việc vi phạm này. Tuy nhiên, khoản tiền nêu trên, như chính Nguyên đơn đã khẳng định, chính là khoản chi phí phải trả còn tồn đọng nên không có quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm nêu trên của Bị đơn và Hội đồng Trọng tài không có cơ sở để chấp nhận mức bồi thường 750.258.240 VND trên của Nguyên đơn”. Ở đây, Nguyên đơn đã có sự nhầm lẫn về thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ thông báo chấm dứt - đình chỉ hợp đồng với thực hiện hợp đồng nên không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Tiếp theo, “Hội đồng Trọng tài nhận thấy việc Bị đơn không thông báo trước 56 ngày cho Nguyên đơn gây tổn hại cho Nguyên đơn vì, đối với khoảng thời gian 56 ngày này, do không biết là hợp đồng đã chấm dứt nên Nguyên đơn vẫn phải chuẩn bị nhân sự phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng. Vì vậy, Nguyên đơn được bồi thường thiệt hại nhưng chỉ được bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc Bị đơn không thông báo trước 56 ngày. Thực tế, pháp luật không quy định về thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ thông báo việc đơn phương chấm dứt hợp đồng và các Bên cũng không thỏa thuận về xác định thiệt hại được bồi thường khi một bên vi phạm nghĩa vụ thông báo này nên Hội đồng Trọng tài xác định thiệt hại được bồi thường theo lẽ công bằng. Ở đây, theo Phụ lục C của hợp đồng, khoản tiền Nguyên đơn được Bị đơn thanh toán cho giai đoạn bảo trì là 375.129.120 VND/năm trên cơ sở Nguyên đơn thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 15 Phụ lục A theo đó Nhà tư vấn phải cung cấp đủ nhân sự và kết hợp với đội ngũ quản lý hoạt động của Chủ đầu tư để phối hợp, tiếp cận vàgiám sát công tác sửa chữa và khắc phục của Nhà thầu trong suốt Thời gian sửa chữa sai sót . Do đó, Hội đồng Trọng tài xác định việc Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thông báo trước 56 ngày tương đương với 2 tháng nên thiệt hại mà Nguyên đơn được bồi thường sẽ tương đương với khoản lợi ích mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng trong khoảng thời gian đó theo hợp đồng và làm tròn 62.500.000 VND (2/12 x 375.129.120 VND/năm)”. Phần trên cho thấy việc không thông báo chấm dứt - đình chỉ hợp đồng có thể làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, việc xác định mức bồi thường thiệt hại là khó và Hội đồng Trọng tài đã phải dựa vào hợp đồng để xác định mức thiệt hại được bồi thường. Do đó, để tránh gây khó khăn trong việc xác định mức bồi thường do vi phạm nghĩa vụ thông báo, các bên nên có thỏa thuận hay chỉ dẫn về mức thiệt hại được bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ này.
#048 | Bồi hoàn chi phí thuê luật sư
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam (Nguyên đơn) ký hợp đồng mua bán với Công ty Trung Quốc (Bị đơn). Phía Việt Nam đã giao hàng nhưng không được thanh toán nên đã khởi kiện ra VIAC. Bên cạnh yêu cầu thanh toán khoản tiền còn thiếu cũng như tiền lãi chậm trả (được Hội đồng Trọng tài chấp nhận), phía Việt Nam còn yêu cầu phía Trung Quốc thanh toán chi phí thuê luật sư phục vụ cho vụ kiện. Cuối cùng, yêu cầu bồi hoàn chi phí thuê luật sư không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã xét rằng “Trong tranh chấp về việc không thực hiện đúng hợp đồng, chi phí thuê luật sư là một thiệt hại phát sinh từ việc không thực hiện đúng hợp đồng nên bên không thực hiện đúng hợp đồng phải bồi thường. Trong vụ kiện này, Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng và dẫn đến tranh chấp nên Nguyên đơn được yêu cầu Bị đơn thanh toán chi phí thuê luật sư như một loại thiệt hại được bồi thường. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng cũng như trong Hồ sơ vụ kiện, Nguyên đơn không đưa ra yêu cầu cụ thể và cũng không cung cấp chứng cứ về chi phí thuê luật sư nên Hội đồng Trọng tài không xem xét vấn đề này”. Trong tố tụng tại Tòa án hiện nay có quy định không theo hướng bên thắng kiện được bồi hoàn chi phí thuê luật sư. Cụ thể, khoản 3 Điều 144 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định “chi phí cho luật sư do người yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác”. Với nội dung này, nếu không có thỏa thuận của các bên đương sự, chi phí thuê luật sư do bên yêu cầu luật sư tự gánh chịu và thực tế không hiếm trường hợp Tòa án đã từ chối yêu cầu bồi hoàn chi phí thuê luật sư trong tố tụng dân sự. Trong vụ việc trên, không phải chi phí luật sư trong tranh chấp về vi phạm hợp đồng không được bồi hoàn. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại trọng tài vẫn chấp nhận yêu cầu bồi hoàn chi phí. Chẳng hạn, theo một Phán quyết trọng tài năm 2013 của Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC, “ngoài ra, Nguyên đơn còn đưa ra chứng cứ chứng minh đã phải thanh toán chi phí luật sư phục vụ cho việc giải quyết tranh chấp là 50.000.000 VND. Hội đồng Trọng tài nhận thấy khoản chi phí luật sư như trên gắn liền với việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn và là hợp lý trên cơ sở tính chất của vụ việc nên là một loại thiệt hại được chấp nhận bồi thường”. Lý do bên bị vi phạm không được bồi hoàn chi phí thuê luật sư trong vụ việc trên không phải xuất phát từ quy định của pháp luật. Bởi lẽ, quy định trên trong Bộ luật tố tụng dân sự chỉ áp dụng cho tranh chấp được giải quyết tại Tòa án, không áp dụng cho tranh chấp được giải quyết tại Trọng tài. Pháp luật trọng tài không có quy định tương tự như quy định trong tố tụng tại Tòa án. Trong tranh chấp về vi phạm quyền dân sự theo nghĩa rộng (bao gồm cả kinh doanh, thương mại) tại Trọng tài, chi phí của bên bị xâm phạm và thắng kiện hoàn toàn có thể được coi là một loại thiệt hại nên nếu hợp lý thì được bồi thường. Trong một Phán quyết trọng tài khác, Hội đồng Trọng tài còn xét rằng “Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn khoản chênh lệch giá 30.819,60 USD do phải ký các hợp đồng mua hàng tương tự từ đối tác khác và 2.690,95 USD chi phí dịch thuật, chi phí hợp pháp hóa giấy tờ và các chi phí khác liên quan đến việc kiện tụng mà Nguyên đơn đã có đủ bằng chứng, chứng từ chứng minh. Chi phí liên quan đến kiện tụng là “tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra” (khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005), trong trường hợp cụ thể này, đây là những chi phí trực tiếp liên quan đến việc Nguyên đơn phải khởi kiện Bị đơn để đòi bồi thường thiệt hại”. Thực ra, lý do bên bị vi phạm không được bồi hoàn chi phí thuê luật sư trong vụ việc trên xuất phát từ sự chuẩn bị của Nguyên đơn. Ở đây, Nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ chứng minh chi phí thuê luật sư là có thực và hợp lý. Đây cũng là hướng giải quyết trong một Phán quyết trọng tài tại VIAC, theo đó “ Về yêu cầu thanh toán thù lao luật sư, thù lao ủy quyền và chi phí khác : Với yêu cầu này, Hội đồng Trọng tài nhận thấy, đây là yêu cầu chính đáng của Nguyên đơn, nếu Nguyên đơn đưa ra được chứng cứ cụ thể làm cơ sở yêu cầu bồi thường các khoản chi phí pháp lý mà Nguyên đơn phải trả như: hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa Nguyên đơn và Luật sư, hóa đơn (VAT) thanh toán tiền dịch vụ pháp lý,… căn cứ vào Hồ sơ vụ tranh chấp, Hội đồng Trọng tài chưa tìm thấy các chứng cứ pháp lý để xem xét theo yêu cầu của Nguyên đơn”. Do đó, doanh nghiệp cần lưu ý là, khi tham gia vào tố tụng trọng tài, cần chuẩn bị kỹ hồ sơ để được bồi hoàn chi phí thuê luật sư, cung cấp cho Hội đồng Trọng tài chứng cứ chứng minh chi phí thuê luật sư của mình là có thực cho vụ tranh chấp và chi phí mà mình bỏ ra thuê luật sư là hợp lý.
#047 | Xác định khoản lợi đáng ra được hưởng nếu không có vi phạm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Trung Quốc (Nguyên đơn – Bên bán) ký hợp đồng với Công ty Việt Nam (Bị đơn - Bên mua) về mua bán thiết bị đồng bộ cho Nhà máy thủy điện. Trước việc Bên bán yêu cầu Bên mua trả tiền, Bên mua cho rằng Nguyên đơn vi phạm thời gian giao hàng, lắp đặt chuyển giao công nghệ nên phải bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng. Bị đơn đưa ra một mức cụ thể nhưng chỉ được Hội đồng Trọng tài chấp nhận một phần. Bài học kinh nghiệm : Trong vụ việc trên, Bên bán có vi phạm hợp đồng, có gây thiệt hại cho Bên mua và, tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Bên bán đã thừa nhận. Như vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường của Bên bán đã hội đủ (trên cơ sở Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”). Vấn đề tiếp theo là Bên bán phải bồi thường cho Bên mua những khoản thiệt hại nào. Theo khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, “giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Với quy định này, khi có vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm được bồi thường “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong thực tế, có không ít khó khăn trong việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong vụ việc nêu trên, Bên mua cho rằng do vi phạm thời gian giao hàng, lắp đặt chuyển giao công nghệ nên Nguyên đơn đã làm phát sinh thiệt hại về doanh thu do chậm khai thác phát điện và phần thiệt hại này được tính toán trên cơ sở từ thời gian phải hoàn tất việc lắp đặt phát điện theo hợp đồng cho đến ngày nhà máy điện phát được điện lên lưới quốc gia. Theo hợp đồng, ngày phải hoàn tất việc lắp đặt phát điện chậm nhất là ngày 30/10/2011, ngày thực tế phát điện lên lưới điện quốc gia là tháng 02/2012 nên thiệt hại phát sinh về thu nhập do hành vi chậm trễ là 04 tháng từ tháng 11/2011 đến tháng 02/2012. Về con số cụ thể, Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn bồi thường thiệt hại cho Bị đơn phần thu nhập từ tiền bán điện trong 04 tháng với số tiền: 9.320.288.976 VND. Bên mua đã đưa ra một con số rất cụ thể về thiệt hại được bồi thường. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “vì Bị đơn đã không cung cấp được chứng cứ đầy đủ và chính xác để xác định mức độ thiệt hại cụ thể mà Bị đơn phải chịu, do đó, để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bị đơn và trên cơ sở trình bày của Nguyên đơn, Hội đồng Trọng tài nhận thấy trong quá trình tranh luận tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài về mức bồi thường thiệt hại, về cơ bản ý chí của hai bên đã gặp nhau ở mức bồi thường thiệt hại là khoảng 20% trên tổng doanh thu. Doanh thu bán điện của tháng 11/2011 là 2.287.616.640 VND, doanh thu của tháng 12/2011 là 2.493.225.910 VND. Tổng doanh thu bán điện của hai tháng 11/2011 và tháng 12/2011 là 4.780.935.550 VND. Như vậy số tiền bồi thường thiệt hại mà Nguyên đơn phải trả cho Bị đơn sẽ là: 4.780.935.550 VND x 20% = 956.186.510 VND. Nghĩa là, Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn số tiền 956.186.510 VN D là thiệt hại do việc giao hàng chậm”. Như vậy, có khó khăn trong việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” và Hội đồng Trọng tài đã đưa ra hướng xác định của mình. Vụ việc cho thấy việc xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” là rất khó, phụ thuộc rất nhiều vào người đánh giá hồ sơ. Vì vậy, doanh nghiệp cần tập trung vào việc cung cấp chứng cứ khi vấn đề xác định “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” được đặt ra.
#046 | Bồi thường lợi ích đáng ra được hưởng nếu không có vi phạm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng với Công ty Lào (Bị đơn - Bên bán) để mua bán gỗ trắc hộp. Bên mua đã chuyển cho Bên bán một số tiền và Bên bán đã giao một số lượng gỗ nhưng vẫn chưa đủ theo hợp đồng. Trước sự vi phạm của Bên bán, Bên mua đã yêu cầu Bên bán bồi thường khoản lợi mà Bên mua đáng ra được hưởng nếu Bên bán không vi phạm hợp đồng. Cuối cùng Hội đồng Trọng tài đã theo hướng “không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về khoản đòi bồi thường này”. Bài học kinh nghiệm : Trước việc đối tác không thực hiện đúng hợp đồng, doanh nghiệp có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại trên cơ sở Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Để được bồi thường thì phải có thiệt hại và khoản 2 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005 quy định hai loại thiệt hại được bồi thường là tổn thất thực tế và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong vụ việc trên, Nguyên đơn cho rằng “Bị đơn không giao đủ hàng nên cơ hội kinh doanh của Nguyên đơn bị mất. Nếu tính theo giá gỗ tại Lào là 6.000 USD/m3, giá gỗ theo hợp đồng bình quân là 3.487,37 USD/m3 thì mỗi mét khối gỗ Nguyên đơn sẽ thu lợi 2.512,63 USD. Với số gỗ Bị đơn còn thiếu là 148,364 m3, Nguyên đơn sẽ mất khoản lợi yêu cầu Bị đơn bồi thường là: 148,364 m3 x 2.512,63 USD/m3 = 372.783,83 USD”. Như vậy, Bên mua cho rằng bị thiệt hại và yêu cầu được bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng. Tuy nhiên, để được bồi thường, Bên mua có trách nhiệm chứng minh thiệt hại được bồi thường trên cơ sở Điều 304 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài theo hướng “Do Nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ về việc Nguyên đơn đã có một hợp đồng bán số gỗ mà Nguyên đơn sẽ mua của Bị đơn cho bên thứ ba tại Lào để hiện thực hóa lợi nhuận, nên không có căn cứ để cho rằng Nguyên đơn đã mất đi khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng, khoản này chỉ là dự tính của Nguyên đơn căn cứ vào chênh lệch giữa giá mua và giá bán dự kiến. Vì vậy, Hội đồng Trọng tài không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về khoản đòi bồi thường này”. Từ vụ việc trên, chúng ta thấy người bị vi phạm được quyền bồi thường khoản lợi đáng ra được hưởng nếu không có việc vi phạm hợp đồng từ phía đối tác. Tuy nhiên, để được bồi thường, bên bị vi phạm phải cung cấp được chứng cứ về khoản lợi này và, trong trường hợp không đưa ra được chứng cứ chứng minh, yêu cầu bồi thường sẽ không được chấp nhận như Hội đồng Trọng tài đã làm trong vụ việc trên. Nói cách khác, khi bị vi phạm, doanh nghiệp phải chủ động trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh khoản lợi mà mình đáng ra được hưởng nếu đối tác không vi phạm hợp đồng. Nếu không cung cấp được chứng cứ chứng minh, yêu cầu bồi thường của doanh nghiệp sẽ không được chấp nhận cho dù có đủ cơ sở để khẳng định đối tác không thực hiện đúng hợp đồng.
#045 | Bồi thường thiệt hại thực tế phát sinh từ việc vi phạm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán hàng hóa với Công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên bán). Theo nhận định của Hội đồng Trọng tài, “Bị đơn đã vi phạm điều khoản chất lượng hàng hóa theo quy định của hợp đồng”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài buộc Bên bán phải bồi thường những thiệt hại thực tế mà Bên mua phải gánh chịu.
#044 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có thiệt hại
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty M (Nguyên đơn) ký hợp đồng với Công ty T (Bị đơn) để thi công công việc chống thấm cho một tòa nhà. Sau đó hai Bên có tranh chấp và một bên yêu cầu bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, yêu cầu bồi thường thiệt hại không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, không hiếm khi gặp trường hợp một bên cho rằng bên kia đã vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng được chấp nhận không khi không chứng minh được thiệt hại? Trong vụ việc trên, Bị đơn đã thông báo cho Nguyên đơn biết là Bị đơn chấm dứt hợp đồng. Nguyên đơn cho rằng “đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật” nên Bị đơn “phải bồi thường thiệt hại” cho Nguyên đơn “bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp” mà Nguyên đơn phải chịu do lỗi của Bị đơn gây ra cũng như khoản lợi mà Nguyên đơn đáng ra được hưởng. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “Căn cứ vào Hồ sơ Vụ tranh chấp, trả lời câu hỏi của Hội đồng Trọng tài về việc yêu cầu Nguyên đơn cung cấp các bằng chứng để làm cơ sở chứng minh việc Bị đơn gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn và Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà Nguyên đơn đáng lẽ được hưởng, nhưng Nguyên đơn đã không đưa ra được bất kỳ bằng chứng nào để chứng minh Bị đơn đã gây thiệt hại trực tiếp cho Nguyên đơn. Như vậy, việc yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn đối với Bị đơn chủ yếu chỉ căn cứ vào ngôn từ trong hợp đồng và giải thích theo suy luận của Nguyên đơn là không thuyết phục, không phù hợp với quy định của pháp luật về yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do vậy, yêu cầu này của Nguyên đơn chưa có cơ sở pháp lý để Hội đồng Trọng tài chấp nhận”. Cũng trong vụ việc trên, Bị đơn cho rằng Nguyên đơn vi phạm hợp đồng gây thiệt hại nên yêu cầu Nguyên đơn bồi thường. Tuy nhiên, theo Hội đồng Trọng tài, “để buộc Nguyên đơn bồi thường thiệt hại, Bị đơn phải chứng minh (i) Nguyên đơn vi phạm hợp đồng; (ii) có thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Khi xem xét yêu cầu này của Bị đơn, Hội đồng Trọng tài nhận thấy: thứ nhất , Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng (mặc dù đã hoàn thành khối lượng công việc theo hợp đồng nhưng phạm vi chống thấm mà Nguyên đơn thi công còn có thấm dột – điều này đã được Nguyên đơn thừa nhận); thứ hai, theo quy định tại khoản 2, Điều 303 Luật Thương mại năm 2005, muốn được bồi thường thiệt hại thì phải chứng minh “có thiệt hại thực tế” xảy ra. Tại các Phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, Bị đơn không cung cấp được bất cứ bằng chứng nào chứng minh việc Nguyên đơn gây thiệt hại trên thực tế cho Bị đơn để làm căn cứ yêu cầu bồi thường”. Từ đó, Hội đồng Trọng tài khẳng định “chưa có đủ cơ sở để Hội đồng Trọng tài tin rằng thiệt hại trên thực tế đã xảy ra để chấp nhận yêu cầu này của Bị đơn”. Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Trong vụ việc trên, chúng ta thấy tồn tại yêu cầu bồi thường thiệt hại và, trong yêu cầu thứ hai (của Bị đơn), chúng ta đã thấy Hội đồng Trọng tài xác định có hành vi vi phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, trong cả hai trường hợp, Hội đồng Trọng tài đều từ chối yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ở đây, nguyên nhân chính dẫn đến từ chối yêu cầu bồi thường là do bên yêu cầu không chứng minh được thiệt hại (một trong những điều kiện để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại). Do đó, khi cho rằng mình bị vi phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại, doanh nghiệp cần chuẩn bị kỹ chứng cứ, nhất là chứng cứ về sự tồn tại của thiệt hại trong thực tế. Nếu không chuẩn bị kỹ chứng cứ như vừa nêu, yêu cầu bồi thường thiệt hại có nguy cơ không được chấp nhận như chúng ta đã thấy.
#043 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có vi phạm
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Hà Lan (Bị đơn – Bên bán). Sau đó, Bên mua yêu cầu Bên bán bồi thường thiệt hại do giao hàng không đúng chủng loại. Tuy nhiên, yêu cầu này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Bài học kinh nghiệm : Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong điều kiện nào, yêu cầu này được chấp nhận? Trong vụ việc trên, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa số 1661 và hợp đồng số 1663. Ngày 31/05/2013, toàn bộ 30 công-ten-nơ hàng về đến cảng Hải Phòng. Sau khi bốc dỡ hàng để thực hiện kiểm dịch và mở tờ khai hải quan điện tử vào ngày 03/06/2013, Nguyên đơn cho rằng hàng bị giao sai chủng loại so với hợp đồng và yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại. Sau khi xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các Bên là pháp luật Việt Nam [1] , Hội đồng Trọng tài cho rằng “thông qua các chứng cứ trong hồ sơ cũng như các trình bày của Nguyên đơn, Nguyên đơn đã thực hiện thanh toán cho hai lô hàng bằng L/C qua Ngân hàng N. Nguyên đơn đã không thực hiện quyền từ chối nhận hàng nếu lô hàng sai chủng loại, mà trên thực tế đã tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ toàn bộ lô hàng về kho bãi của mình. Đồng thời, trong khi chưa đạt được một thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với người có thẩm quyền của Bị đơn về phương thức giải quyết lô hàng có tranh chấp, Nguyên đơn đã đơn phương chỉ định tổ chức giám định lô hàng trong tình trạng hàng hóa đã bị bốc dỡ, không nguyên kiện. Do đó, không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng là gỗ Bạch Dương theo hai hợp đồng số 1661/2013 và 1663/2013. Từ các căn cứ trên, Hội đồng Trọng tài xét thấy chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng (…). Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn: do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết, đồng thời Nguyên đơn cũng không chứng minh được các thiệt hại xảy ra là tổn thất thực tế, trực tiếp mà Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài xét thấy không có căn cứ pháp lý để tuyên buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn”. Như vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bên mua không được chấp nhận và lý do chính của việc không chấp nhận này là do chưa có cơ sở để khẳng định Bên bán đã vi phạm hợp đồng: Theo Hội đồng Trọng tài, “do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài được lý giải như sau: Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Với quy định trên, điều kiện đầu tiên để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường là bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại “có hành vi vi phạm hợp đồng”, tức “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này” (khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Do đó, chưa đủ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Bên bán phát sinh nên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận. Từ vụ việc trên, doanh nghiệp rút ra bài học rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ không thể phát sinh nếu họ không có vi phạm hợp đồng. Đồng thời doanh nghiệp yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng biết rằng yêu cầu của họ không thể được chấp nhận nếu chưa chứng minh được rằng đối tác của họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. [1] “Căn cứ Điều 13 của hợp đồng 1661 và hợp đồng 1663, các Bên thỏa thuận luật pháp áp dụng là luật của Việt Nam. Căn cứ khoản 1 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC và khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết Vụ tranh chấp”.
#042 | Quyền định đoạt về lãi chậm thanh toán
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Công ty A (Nguyên đơn - Bên bán) và Công ty P (Bị đơn - Bên mua) ký hợp đồng mua bán trong đó thỏa thuận trong trường hợp chậm thanh toán thì Bên mua phải chịu lãi suất theo mức lãi suất của Ngân hàng V. Khi giải quyết tranh chấp, Hội đồng Trọng tài tính lãi suất đến ngày giải quyết tranh chấp với mức lãi là 7,5%/năm. Bài học kinh nghiệm : Trong vụ việc trên, Nguyên đơn đã giao hàng và Bị đơn đã nhận hàng nhưng chưa trả hết tiền. Theo Hội đồng Trọng tài, có “đầy đủ chứng cứ chứng minh Bị đơn còn nợ 140.626.197 VND”. Về việc chấp nhận yêu cầu trả nợ gốc, không có điều gì đặc biệt ở đây. Vấn đề đáng quan tâm còn lại là tiền lãi mà bên mua phải trả cho bên bán do chậm thanh toán được xác định như thế nào. * Định đoạt về mức lãi Theo hợp đồng, nếu bên mua chậm thanh toán tiền hàng thì sẽ phải chịu lãi suất trả chậm theo mức lãi suất của Ngân hàng V trong thời điểm chậm thanh toán. Như vậy, các bên đã định đoạt (song phương) mức lãi theo mức lãi suất của Ngân hàng V. Thực ra, việc định đoạt song phương này là phù hợp với quy định của pháp luật áp dụng cho hợp đồng. Cụ thể, đó là Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 với nội dung “trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Luật dự liệu mức lãi suất áp dụng cho chậm thanh toán nhưng chỉ áp dụng khi không “có thỏa thuận khác” và việc các bên thỏa thuận mức lãi của Ngân hàng V là phù hợp với quy định vừa nêu. Thỏa thuận như vừa nêu là hợp pháp và cần được chấp nhận trên cơ sở Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng” và “Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Loại thỏa thuận như vậy sẽ thuận lợi cho các bên trong việc xác định mức lãi trong trường hợp chậm thanh toán và doanh nghiệp nên tận dụng quyền định đoạt này để dự liệu quan hệ của mình để tránh rủi ro từ việc xác định “lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường”. Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại VIAC cho thấy loại thỏa thuận này được chấp nhận. Chẳng hạn, đối với thỏa thuận “ tiền lãi nợ quá hạn đối với số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chậm thanh toán với mức lãi suất bằng 150% lãi suất tiền gửi có kỳ hạn tương ứng được Ngân hàng V công bố vào thời điểm thanh toán ”, theo một Phán quyết trọng tài của Hội đồng Trọng tài thuộc VIAC, “căn cứ theo Điều 306 của Luật Thương mại năm 2005 đã được dẫn chiếu ở trên, thì thỏa thuận này của các Bên cần phải được tôn trọng”. Thực tế, Nguyên đơn yêu cầu “lãi suất nợ quá hạn là 7,5%/năm” và Hội đồng đã tính lãi chậm trả trên cơ sở mức lãi 7,5%/năm. Để đạt được kết quả này, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Hợp đồng có quy định mức lãi suất áp dụng tính chậm thanh toán được công bố bởi Ngân hàng V và trên thực tế, lãi suất Ngân hàng V trong khoảng thời gian chậm thanh toán luôn cao hơn 5%/năm và lãi suất nợ quá hạn luôn cao hơn 7,5%/năm”. Ở đây, mức lãi suất theo định đoạt “song phương” là cao hơn 7,5%/năm nhưng Nguyên đơn yêu cầu mức lãi thấp hơn là 7,5%/năm và được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Hướng như vậy tôn trọng sự định đoạt của người được trả lãi. Thực ra, hưởng lãi là quyền của bên bị chậm thanh toán và Luật cũng như thỏa thuận đã ấn định mức lãi nhưng mức lãi này vẫn nằm trong khả năng định đoạt của người bị chậm thanh toán. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người được hưởng lãi không được định đoạt theo hướng cao hơn so với quy định hay với thỏa thuận mà chỉ được định đoạt ở mức thấp hơn vì nếu họ định đoạt ở mức cao hơn một cách đơn phương thì quyền lợi của đối tác sẽ bị ảnh hưởng nên sẽ không được chấp nhận. Như vậy, doanh nghiệp nên biết rằng họ có thể định đoạt mức lãi cho trường hợp chậm thanh toán. Cụ thể, họ có thể định đoạt song phương với đối tác về mức lãi và mức lãi này có thể cao hơn hay thấp hơn mức lãi mà pháp luật quy định. Khi bị chậm thanh toán, bên bị chậm thanh toán cũng có thể định đoạt mức lãi chậm trả nhưng chỉ theo hướng là thấp hơn so với quy định hay với thỏa thuận. Tùy từng hoàn cảnh mà doanh nghiệp định đoạt tương ứng nhằm bảo vệ lợi ích của mình. * Định đoạt về thời gian tính lãi Theo quy định trên, lãi được tính “tương ứng với thời gian chậm trả”. Điều đó có nghĩa là chừng nào khoản tiền không được thanh toán thì lãi được tính từ thời điểm chậm thanh toán đến thời điểm thanh toán xong. Tuy nhiên, trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài chỉ tính lãi từ khi chậm thanh toán “đến ngày đưa vụ việc ra xét xử”. Sở dĩ Hội đồng Trọng tài theo hướng này vì “Nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi từ ngày 17/07/2013 đến ngày đưa vụ việc ra xét xử”. Ở đây, người bị chậm thanh toán đã định đoạt khác với quy định của pháp luật: Pháp luật cho phép tính lãi từ thời điểm chậm thanh toán đến khi thanh toán xong nhưng người bị chậm thanh toán chỉ yêu cầu tính lãi từ khi chậm thanh toán đến thời điểm giải quyết vụ tranh chấp. Quyền định đoạt (đơn phương) này có lợi cho người có nghĩa vụ hơn so với quy định của pháp luật nên đã được Hội đồng Trọng tài chấp nhận. Như vậy, pháp luật đã dự liệu thời gian tính lãi chậm trả nhưng thời gian này có thể được định đoạt khác. Khi người bị chậm thanh toán đơn phương xác định thời gian khác quy định thì sự định đoạt này được chấp nhận nếu không ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích của bên có nghĩa vụ. Đây là điểm mà doanh nghiệp nên biết để có những ứng xử tương ứng với lợi ích của mình (theo pháp luật hay định đoạt khác có lợi cho người có nghĩa vụ).
#041 | Cấn trừ lãi dư do quá cao vào nợ gốc ở thời điểm thanh toán
12/26/2023Tình tiết sự kiện : Một cá nhân (Nguyên đơn) cho một Công ty (Bị đơn) vay 37.782.000.000 VND với mức lãi theo thỏa thuận là 24%/năm. Bị đơn đã trả cho Nguyên đơn 5.210.000.000 VND tiền lãi được tính theo thỏa thuận cho một giai đoạn và sau đó không trả gốc và lãi nữa nên Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn yêu cầu thanh toán tiền gốc và tiền lãi còn thiếu. Hội đồng Trọng tài xác định mức lãi theo thỏa thuận là quá cao so với quy định nên Bị đơn đã trả lãi dư và cấn trừ phần dư này vào nợ gốc dẫn đến tiền làm phát sinh lãi ở các đợt sau giảm. Bài học kinh nghiệm : Việc cho vay có lãi mà người đi vay là doanh nghiệp khá phổ biến và vụ việc nêu trên là một ví dụ. Pháp luật Việt Nam theo hướng mức lãi do các bên thỏa thuận nhưng sự thỏa thuận đó có giới hạn. Cụ thể, Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “ Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng ” (mức lãi suất cơ bản mà Ngân hàng Nhà nước công bố lần cuối là 9%/năm). Bộ luật dân sự năm 2015 vẫn duy trì mức trần nhưng mức trần và cách thức quy định mức trần có khác biệt vì khoản 1 Điều 468 quy định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay”. Thực tế, không hiếm trường hợp mức lãi theo thỏa thuận vượt quá mức trần và người vay trả lãi theo thỏa thuận là dư so với quy định. Trong vụ việc nêu trên, các bên thỏa thuận mức lãi bằng 24%/năm và người đi vay đã trả 5.210.000.000 VND tiền lãi trên cơ sở mức lãi đã thỏa thuận. Từ đó, Hội đồng Trọng tài xác định “Căn cứ quy định của pháp luật nêu trên, Nguyên đơn chỉ có thể yêu cầu bên vay tiền là Công ty trả 13,5%/năm trong thời hạn vay 1 năm nêu trên. Tính trên nợ gốc 37.782.000.000 VND, Công ty phải thanh toán 13,5%/năm, thành tiền là 5.100.057.000 VND tiền lãi. Theo trình bày của Nguyên đơn, Công ty đã thanh toán cho Nguyên đơn là 5.210.000.000 VND, so với khoản tiền lãi phải thanh toán. Do đó, Bị đơn đã thanh toán dư 109.943.000 VND”. Tại thời điểm giải quyết tranh chấp, người đi vay (Bị đơn) vẫn còn nợ gốc và nợ tiền lãi cho giai đoạn sau khi trả lãi nêu trên. Từ đó, câu hỏi đặt ra là tiền dư nêu trên sẽ được trả vào tiền lãi còn thiếu hay được trả vào tiền gốc chưa trả? Trả lời cho câu hỏi này kéo theo hệ quả quan trọng. Bởi lẽ, nếu ưu tiên trả vào tiền lãi thì tiền gốc vẫn còn nguyên nên sẽ tiếp tục làm phát sinh lãi trên khoản nợ gốc. Ngược lại, nếu ưu tiên thanh toán vào nợ gốc ở thời điểm trả lãi, tiền gốc sẽ giảm đi nên tiền gốc làm phát sinh lãi giảm cho giai đoạn sau (nên lãi cho giai đoạn sau giảm). Ở đây, Hội đồng Trọng tài đã theo hướng ưu tiên sử dụng tiền lãi trả dư vào tiền gốc. Cụ thể, trong vụ việc này, các bên có thỏa thuận cho giai đoạn chậm trả mức lãi cao hơn mức lãi trong hạn. Sau khi phân tích các quy định liên quan, Hội đồng Trọng tài xác định “lãi quá hạn bằng lãi suất vay do các bên thỏa thuận và được Hội đồng Trọng tài chấp nhận trong giới hạn là 13,5%/năm, cộng thêm mức lãi suất cơ bản là 9%, tổng cộng cũng là 22,5%/năm”. Từ đó, liên quan đến việc tính lãi chậm trả, Hội đồng Trọng tài không sử dụng tiền gốc ban đầu (37.782.000.000 VND) mà sử dụng tiền gốc ban đầu sau khi trừ tiền lãi trả dư (37.672.057.000 VND) với nhận xét “tiền lãi chậm trả cho khoản tiền gốc còn lại 37.672.057.000 VND đối với giai đoạn chậm trả từ ngày 25/06/2016 cho đến ngày ban hành Phán quyết trọng tài (31 tháng) với mức lãi là 22,5%/năm là 21.896.833.000 VND (làm tròn số)”. Hướng như nêu trên của Hội đồng Trọng tài là thuyết phục để tăng tính răn đe cho trường hợp cho vay lãi quá cao so với quy định. Hướng này cũng phù hợp với quy định hiện hành và đường lối giải quyết của Tòa án nhân dân tối cao (trong một vụ việc liên quan đến vay có lãi theo thỏa thuận, Tòa án nhân dân tối cao đã xét rằng “ Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ xem có hay không có việc bà H đã trả lãi cho bà L hay trả lãi cho người nào khác. Trong trường hợp B ị đơn đã trả lãi cho Nguyên đơn, thì số tiền lãi đó lớn hơn so với tiền lãi áp dụng mức lãi suất theo quy định của pháp luật là bao nhiêu, từ đó đối trừ số tiền lãi chênh lệch vào khoản tiền nợ gốc tại thời điểm thanh toán lãi ”) [1] . Từ đó, các doanh nghiệp cần lưu ý trong việc thỏa thuận mức lãi cho vay và không nên thỏa thuận mức lãi vượt quá mức trần đã được pháp luật quy định; nếu mức lãi theo thỏa thuận quá cao so với quy định thì mức vượt quá cũng không được chấp nhận và khoản tiền lãi trả dư sẽ được ưu tiên trả vào nợ gốc ở thời điểm trả lãi nên khoản tiền gốc làm phát sinh lãi cho giai đoạn sau sẽ giảm. [1] Về chủ đề này, xem Đỗ Văn Đại, xem Đỗ Văn Đại , Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án , Sđd, Bản án số 82 - 85.