Tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Con người, quyền con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước” do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Tạp chí Cộng sản và Tỉnh ủy Hưng Yên tổ chức sáng 15/10/2024, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Nguyễn Khánh Ngọc đã có bài tham luận sâu sắc. Báo Pháp luật Việt Nam trân trọng giới thiệu tham luận của Thứ trưởng.
QUAN ĐIỂM, CÁCH TIẾP CẬN LẤY CON NGƯỜI LÀ TRUNG TÂM, MỤC TIÊU, CHỦ THỂ VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC - KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) Nguyễn Khánh Ngọc
I. Cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng pháp luật lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước.
Quyền con người là khát vọng và là giá trị mà mọi dân tộc văn minh đều hướng tới; quyền con người có được cách hiểu, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ như ngày hôm nay là thành quả của quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử nhân loại và của mỗi dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam đã đưa ra định hướng "phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân[1]” và "Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển[2]”.
Nhìn lại lịch sử, Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã đặt nền tảng cho tư tưởng, định hướng của Đảng và Nhà nước ta lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước khi khẳng định "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”[3].
Tư tưởng, định hướng này đã được thể chế hóa qua các bản Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013. Các đạo luật của Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đã cụ thể hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc hiểu thống nhất, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
Trong quá trình phát triển của mình, thông qua tổng kết thực tiễn và lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về vấn đề quyền con người, từng bước đề cập ngày càng rõ ràng, đầy đủ, toàn diện hơn vấn đề quyền con người trong các văn kiện của Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội XII[4] và được khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: "Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”[5].
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) đã nhấn mạnh quan điểm "lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước” đồng thời đặt ra một trong các mục tiêu cơ bản đến năm 2030 là "Hoàn thiện cơ bản các cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.
Nghị quyết cũng đặt ra các nhiệm vụ: "Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng và quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân"[6].
Như vậy có thể thấy định hướng, quan điểm của Đảng về lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước là khá rõ ràng, thể hiện ngay trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được khẳng định ngày càng đậm nét, đầy đủ và sâu sắc hơn trong các nghị quyết của Đảng. Định hướng, quan điểm này đã và đang được thể chế hóa thành pháp luật, từ các bản Hiến pháp cho tới các đạo luật của Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật.
Lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp 2013. Mỗi bản Hiến pháp đánh dấu bước phát triển của lịch sử lập hiến Việt Nam trong việc ghi nhận quan điểm, định hướng lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước. Việc khẳng định và ghi nhận này có ý nghĩa to lớn đối với việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân[7] gắn với việc hiến định trách nhiệm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân[8].
Nhận thức được vấn đề thúc đẩy, bảo đảm và bảo vệ quyền con người là vấn đề toàn cầu, cộng đồng thế giới đã thông qua nhiều điều ước quốc tế, văn kiện quan trọng về quyền con người; trong đó phải kể tới Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966. Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1969, Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989… và gần đây là các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên Hợp Quốc trong đó có đề cập tới các quyền con người và pháp quyền cần được thúc đẩy và bảo vệ[9].
Thực hiện đường lối đối ngoại là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, Đảng ta cũng đề ra các định hướng, quan điểm trong hợp tác với nước ngoài về pháp luật, tư pháp và quyền con người. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước quốc tế quan trọng về quyền con người và luôn nỗ lực, cố gắng nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế của mình kể cả nỗ lực nội luật hóa các cam kết quốc tế để thực hiện hiệu quả, thống nhất.
Bên cạnh đó, qua gần 40 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều; quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên.[10] Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được thúc đẩy, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững[11].
Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008, đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện, tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh[12], đem lại niềm tin và sự hài lòng của người dân, khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một thực tế là xu thế chung của nhiều nước, đi cùng với việc đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, nâng cao thì nhu cầu của người dân được bảo đảm, bảo hộ về các quyền và lợi ích hợp pháp cũng tăng lên. Điều này đặt ra yêu cầu đối với Đảng và Nhà nước cần quan tâm giải quyết phù hợp nhu cầu ngày càng tăng này của nhân dân. Chính vì vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh nâng cao hiệu quả việc lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước trong các chính sách, pháp luật là một nhu cầu thực tế trong bối cảnh hiện nay khi đất nước bước vào Kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc[13].
Như vậy, có thể thấy, cho tới nay chúng ta có đủ cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn để xây dựng hệ thống pháp luật lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước.
II. Xây dựng hệ thống pháp luật lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước
Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa thành công, ngay tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt với mục đích để nhân dân thực hiện quyền tự do, dân chủ, quyền công dân của mình là bầu ra Quốc hội và Quốc hội này có quyền thông qua một bản Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Người chỉ rõ: "Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ”[14]. Như vậy, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người là rất hiện đại khi gắn quyền con người với văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất của quốc gia là Hiến pháp[15].
Trong tất cả 05 bản Hiến pháp, việc ghi nhận, khẳng định quan điểm, định hướng lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước đều có sự kế thừa và phát triển. Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 đã ghi nhận chủ thể của hiến pháp là “quốc dân” (nhân dân): “Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”[16].
Nhiều quy định của Hiến pháp 1946 thể hiện được những tư tưởng tiến bộ về quyền con người và quyền công dân như: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều thứ 7); “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật ” (Điều thứ 11)...
Kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, trên cơ sở các định hướng của Đảng, kết quả nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, cùng với việc khẳng định chủ quyền nhân dân trong xây dựng và thực thi Hiến pháp tại Lời nói đầu,[17] Hiến pháp năm 2013[18] đã thể hiện sự tiến bộ vượt bậc trong quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân[19]. Trong số 36 Điều của Hiến pháp năm 2013 quy định trực tiếp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, có đến 23 Điều quy định về quyền con người[20]. Theo đó, quyền con người được coi là “quyền tự nhiên”, vốn có gắn với mỗi con người và ở Việt Nam các quyền này chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật do Quốc hội ban hành trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013).
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật được rà soát, hoàn thiện. Nhiều đạo luật về các quyền dân sự,[21] chính trị[22], quyền tự do, dân chủ của công dân đã được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân[23]. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng quan tâm hoàn thiện pháp luật bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân[24].
Một điểm đáng ghi nhận là thời gian qua đã có sự phát triển thống nhất, đồng bộ và kịp thời về các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước và việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối và chính sách này thành pháp luật của Nhà nước. Ở đây, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật có vai trò hết sức quan trọng[25].
Quy trình xây dựng VBQPPL thường xuyên được rà soát, hoàn thiện để thể chế hóa quan điểm, cách tiếp cận lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) (sau đây gọi là Luật ban hành VBQPPL) đã có nhiều đổi mới về quy trình xây dựng pháp luật[26] nhằm xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, hiệu lực và hiệu quả đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Có thể thấy, trong tất cả các bước của quy trình xây dựng pháp luật thì một trong các yêu cầu quan trọng nhất là phải nắm được các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về các nội dung được điều chỉnh bởi VBQPPL để bảo đảm việc xây dựng pháp luật thể chế hóa đầy đủ, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Một bộ hồ sơ chuẩn đối với đề nghị xây dựng VBQPPL hay dự thảo VBQPPL gửi Bộ Tư pháp để thẩm định bao giờ cũng phải làm rõ cơ sở chính trị là các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Trong thẩm định, Bộ Tư pháp có trách nhiệm đánh giá về sự phù hợp của hồ sơ với ”đường lối, chủ trương của Đảng” (điểm b, khoản 3 Điều 39 Luật Ban hành VBQPPL). Các quy định của quy trình xây dựng pháp luật như vậy đã giúp cho việc thể chế các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng trong đó có quan điểm lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước trở thành pháp luật và áp dụng thống nhất.
Bên cạnh đó, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) hiện hành đã quy định rõ “quyền” tham gia góp ý kiến xây dựng VBQPPL của tổ chức và người dân về đề nghị xây dựng VBQPPL và dự thảo VBQPPL (Điều 6) và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong việc tạo điều kiện để người dân và tổ chức đóng góp ý kiến cùng với nhiều trách nhiệm khác của các cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản QPPL từ khâu lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chủ trì, tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, trình dự án, dự thảo đến ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 6 và Điều 7).
Luật đã có nhiều quy định cụ thể trách nhiệm của chủ thể đề xuất, xây dựng dự án, dự thảo văn bản QPPL phải tổ chức đăng tải lấy ý kiến trên cổng thông tin... về đề nghị, kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh; tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý (các Điều 36, 57, 86, 91, 101, 105, 106, 107 113, 120, 129, 133, 138, 142). Các quy định này tạo điều kiện cho Nhân dân, nhất là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật một cách thực chất, hiệu quả hơn[27].
Như vậy có thể thấy, công tác xây dựng pháp luật lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước đã được tổ chức thực hiện theo đúng định hướng, quan điểm của Đảng và Hiến pháp. Hệ thống pháp luật ngày càng quy định đầy đủ cả về quyền với cơ chế bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
III. Thay cho lời kết
Bên cạnh những nỗ lực, cố gắng để có được nhiều kết tích cực trong công tác xây dựng pháp luật với cách tiếp cận lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận là vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, hạn chế hoặc có vấn đề còn chưa theo kịp yêu cầu cuộc sống trong thể chế hóa đầy đủ, chính xác hiệu quả định hướng, quan điểm của Đảng lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước.
Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định rõ quan điểm, mục tiêu, trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới với các nhiệm vụ và giải pháp đến năm 2030.
Tìm hiểu tinh thần và nội dung của Nghị quyết số 27-NQ/TW thì có thể thấy Đảng ta đã khéo léo đặt vấn đề quyền con người và pháp quyền XHCN gắn chặt với nhau. Sẽ khó có thể thúc đẩy và bảo vệ, bảo đảm thành công được các quyền con người nếu như không xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Ngược lại, sẽ không thể nói xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam khi các quyền con người cơ bản chưa được bảo đảm và bảo vệ hiệu quả. Chính vì vậy, quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là ”lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước” cần tiếp tục được quán triệt, nhận thức đúng để tổ chức thực hiện thống nhất, hiệu quả trong thời gian tới đây.
Trong bối cảnh với thế và lực đã tích luỹ được sau gần 40 năm đổi mới, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Trung ương Đảng đã xác định[28],quan điểm, cách tiếp cận lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật càng trở nên cấp thiết để góp phần hoàn thiện thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, huy động, khơi thông mọi nguồn lực hiện thực hóa mục tiêu 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước.
Đây cũng là thời điểm thích hợp để đổi mới tư duy xây dựng pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc "công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”[29], cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức thực hiện đúng chức trách theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; "không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự”[30]; thực hiện nghiêm yêu cầu "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[31].
Chúng ta tin tưởng rằng các Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV tới đây sẽ có sự kế thừa và phát triển mới về lý luận, định hướng tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước, đi cùng với đó thì hệ thống pháp luật cũng cần được rà soát, hoàn thiện để thể chế hóa đầy đủ những định hướng mới này của Đảng thành pháp luật của Nhà nước.
Nguyễn Khánh Ngọc, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Trọng tài viên VIAC
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Tập 1, Tr 71
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Tập 1, Tr 47
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, xuất bản lần thứ ba theo Quyết định của Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam số 299-QĐ/TW ngày 6 tháng 4 năm 2010. Nxb CTQGST, Tập 4 (1945-1946), Hà Nội 2011, Tr 1.
[4] Đại hội VI (1986) khẳng định quan điểm: “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định” và “…bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nhà xuất bản Sự thật, 1987, tr. 112, 117)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.12-13)
Đại hội VIII khẳng định “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển…” (Văn kiện Đại hội, đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.28; 113).
Đại hội XI khẳng định quan điểm “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước” (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020).
Đại hội XII nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị thì cần phải đẩy mạnh công tác bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Tập 1, Tr 215, 216.
[6] Đoạn ba, điểm 2, Mục IV Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
[7] Chương II Hiến pháp 2013 đã quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; theo đó bổ sung một số quyền mới như quyền sống, quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác… phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam là thành viên, đồng thời bổ sung nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
[8] Xem Điều 3, Điều 8 và Chương II (Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) Hiến pháp 2013.
[9] Cụ thể hóa Chương trình nghị sự 2030, ngày 10/5/2017 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững (Quyết định số 622/QĐ-TTg), trong đó đã đề ra 17 SDGs với 115 mục tiêu cụ thể. Tiếp đó, ngày 4/6/2019 Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định 681/QĐ-TTg về lộ trình thực hiện các SDGs Việt Nam (VSDGs) đến năm 2030 và để cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu về phát triển bền vững. Ngày 25/9/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP để thúc đẩy việc thực hiện các SDGs, trong đó có định hướng các ngành, các cấp và địa phương đến năm 2030.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Tập 1, tr 209.
[11] Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, tháng 12/2023, tr. 12-18.
[12] Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Tập 1, tr 210.
[13] Diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024). Nguồn: https://vnexpress.net/ha-noi-phai-xung-tam-thu-do-trong-ky-nguyen-phat-trien-moi-cua-dat-nuoc-4802398-p2.html.
[14] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4 (xuất bản lần thứ ba), NxbCTQGST, Hà Nội năm 2011, tr 7.
[15] Khi bình luận về vấn đề này, GS Hoàng Văn Hảo đã viết “Như vậy, chính vai trò giá trị của quyền con người, quyền công dân mà trong tư duy chính trị của nhân loại, vấn đề quyền con người, quyền công dân trở thành một nội dung chính của lịch sử lập hiến. Luật về các quyền của Anh sau Cách mạng năm 1689, Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, Hiến pháp của tất cả các nước, dù ở chế độ xã hội nào (tư bản, xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển) đều có chế định quyền con người, quyền công dân. Đó là nội dung cơ bản nhất của mỗi Hiến pháp, nội dung quan trọng đến mức nếu không có chế định quyền con người, quyền công dân, thì cũng không thể có bản Hiến pháp, nội dung đó chi phối kết cấu của bản Hiến pháp, chế định quyền công dân thường được đặt lên hành đầu trong Hiến pháp của nhiều nước”. Xem thêm trong “Hiến pháp Việt Nam và vấn đề quyền con người, quyền công dân. Trong cuốn Hiến pháp, pháp luật và quyền con người: Kinh nghiệm Việt Nam và Thuỵ Điển. Hà Nội 5-2001, tr. 148.
[16] Lời nói đầu của Hiến pháp 1946.
[17] “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
[18] Hiến pháp này đã được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 và đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 08/12/2013 và Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 theo Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28/11/2013 của Quốc hội.
[19] Hiến pháp năm 2013 có những quy định hoàn toàn mới về quyền con người mà các Hiến pháp trước chưa quy định hoặc chỉ quy định đó là quyền công dân. Đó là các quy định như: “Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “Mọi người có quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe , bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh (Điều 38)”; “Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó” (Điều 40)
[20] Các quyền con người thể hiện Trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966 về cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013.
[21] Bộ luật Dân sự năm 2015.
[22] Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[23] Lần đầu tiên, Quốc hội ban hành Luật Trưng cầu ý dân (năm 2015), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016).
[24] Thể hiện thông qua việc ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Luật sư năm 2012, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật Thi hành án dân sự 2014, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 (hình thức thi hành án tử hình chuyển từ bắn sang tiêm thuộc độc), Luật Đặc xá năm 2018 (công tác tổ chức, thi hành xét đặc xá, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện công khai, minh bạch), Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, sửa đổi năm 2017, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân…
[25] Ngay từ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đã quy định “... Công dân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến và tiếp thụ ý kiến đóng góp để xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 3)”. Quy định này đã tiếp tục được kế thừa và quy định cụ thể trong các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, 2015 và các lần sửa đổi, bổ sung.
[26] Như: (i) Tách quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo văn bản; (ii) quy định rõ quy trình lập chương trình xây dựng luật pháp lệnh; quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh; (iii) quy trình rõ về trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan ở từng giai đoạn soạn thảo, như: lấy ý kiến vào dự án, dự thảo văn bản; thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo...
[27] Ví dụ: Trong đợt lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự để xây dựng nên Bộ luật Dân sự năm 2015, các cơ quan có thẩm quyền đã thống kê được có trên 8,5 triệu lượt ý kiến tham gia, góp ý đối với dự thảo Bộ luật này. Trong đợt lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Luật Đất đai vừa qua (để xây dựng nên Luật Đất đai năm 2024), các cơ quan có thẩm quyền đã thống kê được trên 12 triệu lượt ý kiến tham gia, góp ý đối với dự thảo Luật.
[28] Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII ngày 20/9/2024 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm.
[29] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[30] Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, tập 1, trang 288.
[31] Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Theo Báo Pháp luật Việt Nam đăng ngày 15/10/2024