#075 | Xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ hợp đồng  

12/26/2023

 

Tình tiết sự kiện:

Công ty B (nguyên đơn) và Công ty L (Bị đơn) xác lập với nhau hai hợp đồng. Ở đây, Nguyên đơn là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và người ký hợp đồng trong phần của Nguyên đơn là một cá nhân có quốc tịch nước ngoài. Mặc dù vậy, Hội đồng Trọng tài xác định quan hệ không có yếu tố nước ngoài nên vận dụng các quy định về quan hệ không có yếu tố nước ngoài.

Bài học kinh nghiệm:

Với sự mở cửa, doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các quan hệ có yếu tố nước ngoài trở thành phổ biến. Hiện nay, chúng ta có những quy định riêng cho quan hệ có yếu tố nước ngoài và quy định riêng cho quan hệ không có yếu tố nước ngoài.

Chẳng hạn, nếu là quan hệ có yếu tố nước ngoài, các bên được thỏa thuận chọn pháp luật điều chỉnh quan hệ của họ (pháp luật Việt Nam hay pháp luật khác) trên cơ sở khoản 2 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 theo đó “đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn; nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng Trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp nhất”. Ngược lại, đối với quan hệ không có yếu tố nước ngoài, cần phải áp dụng pháp luật Việt Nam trên cơ sở khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 theo đó “đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp”.

Như vậy, việc xác định một quan hệ có yếu tố nước ngoài hay không là quan trọng, kéo theo những hệ quả nhất định. Về chủ đề này, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không cho biết dấu hiệu nào được coi là yếu tố nước ngoài mà chỉ quy định tại khoản 4 Điều 3 rằng “tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”. Do đó, cần phải xác định yếu tố nước ngoài trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự năm 2005.

Điều 758 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định rằng “quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005 vì quy định “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, pháp nhân nước ngoài; b) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; c) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam, pháp nhân Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài” (khoản 2 Điều 663). Quy định trong hai Bộ luật dân sự vừa nêu đưa ra hai loại dấu hiệu để nhận diện quan hệ có yếu tố nước ngoài: Loại thứ nhất mang yếu tố khách quan như dựa vào tài sản trong quan hệ và loại thứ hai dựa vào chủ thể trong quan hệ. Đối với yếu tố khách quan, chúng ta sẽ có hội xem xét trong chủ đề sau còn ở đây chúng ta chỉ quan tâm tới yếu tố chủ thể.

Trong quan hệ trên, Nguyên đơn là một doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vậy đây có là dấu hiệu để khẳng định quan hệ có yếu tố nước ngoài không? Theo Hội đồng Trọng tài, “Nguyên đơn được thành lập theo pháp luật Việt Nam và đăng ký hoạt động tại Việt Nam trong khi đó theo khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh”. Căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự nêu trên, việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (cho dù là 100%) không là dấu hiệu để xác định có yếu tố nước ngoài khi doanh nghiệp này được đăng ký, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Hướng giải quyết cho hoàn cảnh tương tự trên không thay đổi khi áp dụng Luật Doanh nghiệp năm 2014 vì khoản 9 Điều 4 Luật này quy định “doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam”.

Trong vụ việc trên, trong những người ký hai hợp đồng có người nước ngoài là ông D. Đây có là dấu hiệu để xác định hợp đồng có yếu tố nước ngoài không? Theo Hội đồng Trọng tài, “người này ký hai hợp đồng với tư cách đại diện Nguyên đơn nên chủ thể tham gia vào hợp đồng có tranh chấp không là ông D mà là Nguyên đơn (người được đại diện). Vì vậy, chủ thể xác lập hai hợp đồng có tranh chấp không là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đồng thời, hai hợp đồng có tranh chấp được xác lập và thực hiện ở Việt Nam nên Hội đồng Trọng tài nhận thấy quan hệ có tranh chấp không có yếu tố nước ngoài”. Ở đây, có người nước ngoài nhưng người nước ngoài không là một bên trong hợp đồng vì chỉ là người đại diện cho một bên Việt Nam trong hợp đồng nên hợp đồng được xác lập không có yếu tố nước ngoài.

Kết hợp hai phân tích nêu trên, Hội đồng Trọng tài đã đi đến kết luận “do quan hệ hợp đồng có tranh chấp không có yếu tố nước ngoài nên căn cứ vào khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 nêu trên, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp. Việc áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp quan hệ hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn cũng phù hợp với nội dung của hai hợp đồng có tranh chấp vì, trong hai hợp đồng, các Bên khẳng định áp dụng pháp luật Việt Nam”.

Từ vụ việc trên, doanh nghiệp biết rằng quan hệ có yếu tố nước ngoài có những quy định đặc thù so với quan hệ không có yếu tố nước ngoài. Về dấu hiệu để nhận biết quan hệ có yếu tố nước ngoài hay không thì cần căn cứ vào Bộ luật dân sự và việc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng được thành lập, hoạt động ở Việt Nam cũng như việc tồn tại người đại diện nước ngoài không là yếu tố để xác định quan hệ có yếu tố nước ngoài.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI