Huỷ phán quyết trọng tài và các vấn đề liên quan đến bên thứ ba

10/29/2024

Tóm tắt: Bên cạnh nhiều ưu điểm, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định, trong đó có vấn đề giới hạn thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đối với bên thứ ba. Vấn đề đặt ra là cần nhận diện đúng các trường hợp PQTT có liên quan đến bên thứ ba và khả năng Tòa án hủy PQTT do liên quan đến bên thứ ba để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm giảm thiểu rủi ro PQTT bị hủy. Mặt khác, cũng cần có giải pháp hoàn thiện cơ chế hủy PQTT hiện còn nhiều bất cập. 

Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án nhưng nó cũng có một số nhược điểm, hạn chế nhất định. Một trong những hạn chế lớn nhất của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là giới hạn thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (HĐTT) đối với bên thứ ba, không chỉ trong việc ra phán quyết trọng tài (PQTT) mà còn trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. 

Đặc biệt trong thời gian gần đây, hạn chế nói trên của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng được nhận diện rõ hơn trong thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp tại trọng tài.

 

1. Nhận diện “PQTT liên quan đến bên thứ ba” 

PQTT liên quan đến bên thứ ba có thể bao gồm các trường hợp sau đây: 

(i) Nội dung phần quyết định (QĐ) của PQTT có xác định trực tiếp quyền hoặc nghĩa vụ của bên thứ ba; 

(ii) Nội dung phần QĐ của PQTT có xác định quyền hoặc nghĩa vụ của một bên tranh chấp nhưng quyền hoặc nghĩa vụ này là quyền, nghĩa vụ đối với bên thứ ba; 

(iii) Nội dung phần nhận định (NĐ) của PQTT có xác định trực tiếp quyền hoặc nghĩa vụ của bên thứ ba; 

(iv) Nội dung phần NĐ của PQTT có xác định quyền hoặc nghĩa vụ của một bên tranh chấp nhưng quyền hoặc nghĩa vụ này là quyền, nghĩa vụ đối với bên thứ ba; 

(v) Nội dung phần QĐ hoặc NĐ của PQTT chỉ xác định quyền hoặc nghĩa vụ của các bên tranh chấp đối với nhau nhưng việc thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ này sẽ ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. 

2. Khả năng PQTT bị hủy do liên quan đến bên thứ ba và căn cứ pháp luật để Tòa án hủy PQTT 

Muốn đánh giá khả năng PQTT bị hủy do liên quan đến bên thứ ba thì cần phải xem xét trong các trường hợp liên quan nói trên, trường hợp nào có thể rơi vào một trong các trường hợp PQTT bị hủy theo quy định tại khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (LTTTM). 

Trong thực tiễn, theo quan sát của tác giả bài viết, hầu như không có PQTT nào rơi vào một trong 4 trường hợp đầu tiên (từ i đến iv) nêu ở mục 1 nói trên, có lẽ do hầu hết các trọng tài viên đều ý thức được giới hạn thẩm quyền của HĐTT đối với bên thứ ba và các trường hợp này đều dễ được nhận thấy là đã “đụng chạm” đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Do đó, tác giả xin không đề cập đến khả năng hủy PQTT đối với các trường hợp này. 

Tuy nhiên, trường hợp thứ năm (v) trong mục 1 nói trên thì lại khác. Bản thân tác giả bài viết này đã từng biết ít nhất có 2 PQTT trong 2 vụ tranh chấp đã rơi vào trường hợp này. 

Vụ việc thứ nhất: Hai công ty A (bên bán) và B (bên mua) ký kết và thực hiện nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau. Đối với Hợp đồng mua bán X, A đã ký hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ của mình phát sinh từ hợp đồng này cho Ngân hàng C để bảo đảm cho khoản vay của A tại Ngân hàng.

Tuy nhiên, sau đó, A và B lại ký Biên bản đối trừ công nợ phát sinh từ Hợp đồng X nói trên (B nợ A) với công nợ phát sinh từ Hợp đồng Y (mà A nợ lại B), làm cho quyền đòi nợ của A phát sinh từ Hợp đồng X bị triệt tiêu.  

Mặc dù đã ký Biên bản đối trừ công nợ như trên, A vẫn khởi kiện B ra Trọng tài để yêu cầu Trọng tài buộc B phải thanh toán cho A khoản nợ phát sinh từ Hợp đồng X vì cho rằng việc đối trừ công nợ này không đúng với ý chí của A. Trong khi đó, B không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của A vì cho rằng khoản nợ mà A yêu cầu đã được các bên thỏa thuận đối trừ với khoản nợ của Hợp đồng Y như Biên bản đã ghi. 

HĐTT đã ra PQTT không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của A với lập luận như lập luận của B đã trình bày ở trên. 

Sau đó, A đã nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy PQTT và trình bày cũng như cung cấp chứng cứ chứng minh quyền đòi nợ của A phát sinh từ Hợp đồng X đã được thế chấp cho Ngân hàng C để bảo đảm cho khoản vay của A tại Ngân hàng.  

Tòa án đã xác minh tại Ngân hàng C và được ngân hàng này cung cấp ý kiến xác nhận kèm theo chứng cứ chứng minh hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ nói trên đã được đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Ngân hàng C cũng không đồng ý với PQTT. 

Từ những chứng cứ nói trên, Tòa án đã ra Quyết định hủy PQTT đã tuyên để giải quyết tranh chấp giữa A và B với lý do PQTT đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba là Ngân hàng C, tức là PQTT trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 LTTTM. Tòa án nhận định: Sự thỏa thuận cấn trừ nợ giữa A và B đã vi phạm điều cấm của Bộ luật Dân sự (BLDS) là tài sản thế chấp không được mua bán, trao đổi (trừ khi được sự đồng ý của bên nhận thế chấp) nhưng PQTT vẫn công nhận sự thỏa thuận này, làm cho khoản vay của A tại Ngân hàng C không còn tài sản bảo đảm. 

Trong vụ tranh chấp nói trên, có thể HĐTT không có lỗi cố ý do trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, các bên đã không cung cấp thông tin về việc quyền đòi nợ của A phát sinh từ Hợp đồng X đã được thế chấp cho Ngân hàng C nên HĐTT đã không biết để ra một PQTT phù hợp. Dẫu sao, đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho các Trọng tài viên (TTV). 

Vụ việc thứ hai: Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản (BĐS) A ký hợp đồng mua bán BĐS với khách hàng B. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi B đã thanh toán được một phần giá trị hợp đồng, giữa các bên đã phát sinh tranh chấp do B cho rằng A đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao BĐS còn A thì cho rằng B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên A đã đơn phương chấm dứt hợp đồng và đã ký hợp đồng bán BĐS đó cho một khách hàng khác (C). 

Do không thể tự giải quyết tranh chấp, B đã khởi kiện A ra Trọng tài với yêu cầu buộc A phải tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán BĐS giữa 2 bên, cụ thể là buộc A phải bàn giao BĐS cho B. Ngược lại, A vẫn giữ quan điểm không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của B vì cho rằng B đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên A đã đơn phương chấm dứt hợp đồng và đã ký hợp đồng bán BĐS đó cho một khách hàng khác (C). A đã cung cấp cho HĐTT bản hợp đồng và chứng cứ về việc bàn giao BĐS giữa A và C. 

Ba TTV trong HĐTT đã không nhất trí được phương án giải quyết, mỗi TTV có quan điểm giải quyết khác nhau. Cụ thể: 

- Quan điểm TTV 1: Chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B, buộc A phải bàn giao BĐS cho B. 

- Quan điểm TTV 2: Không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B vì B chưa đủ điều kiện (chưa thanh toán đủ tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng) để yêu cầu A bàn giao BĐS. 

- Quan điểm TTV 3: Không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B vì yêu cầu này không có căn cứ. 

Như vậy, trong HĐTT có 2 TTV cùng có quan điểm không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Biểu quyết theo nguyên tắc đa số thì HĐTT phải ra PQTT không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Tuy nhiên, giữa 2 TTV này lại không nhất trí về căn cứ để quyết định không chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn. Một người cho rằng không chấp nhận yêu cầu vì B chưa đủ điều kiện (nghĩa là khi nào thanh toán đủ thì mới có quyền yêu cầu, tức là B vẫn còn cơ hội yêu cầu trong tương lai) còn một người lại cho rằng không chấp nhận yêu cầu vì yêu cầu này không có căn cứ (nghĩa là B không có cơ hội để có quyền yêu cầu nữa). 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 LTTTM, trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì PQTT được lập theo ý kiến của Chủ tịch HĐTT. Trong vụ tranh chấp này, Chủ tịch HĐTT là TTV thứ ba có quan điểm không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B vì yêu cầu này không có căn cứ. 

Do đó, nếu các TTV vẫn bảo lưu quan điểm thì PQTT phải được lập theo ý kiến của Chủ tịch HĐTT, kể cả phần QĐ và phần NĐ, tức là HĐTT phải ra PQTT với nội dung phần QĐ là không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B và nội dung lập luận ở phần NĐ là yêu cầu này không có căn cứ. 

Nhận thức được tình hình thảo luận trong HĐTT và quy định của pháp luật nói trên, TTV thứ nhất đã thay đổi quan điểm từ chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B và buộc A phải bàn giao BĐS cho B thành đồng ý với quan điểm của TTV thứ hai là không chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của B vì B chưa đủ điều kiện. Đồng thời TTV 1 đã yêu cầu HĐTT (ngoài việc ghi trong phần NĐ) phải ghi vào trong phần QĐ câu: “Khi nào B có đủ điều kiện (thanh toán đủ) thì có quyền khởi kiện một vụ tranh chấp khác để yêu cầu A bàn giao BĐS cho B”. Do TTV thứ hai cũng đồng ý với đề nghị này của TTV 1 nên HĐTT phải biểu quyết theo đa số, tức là ghi câu nói trên vào phần QĐ của PQTT. 

Và một kết quả “lạ đời”, “trớ trêu” đã xảy ra, bên thua kiện (B) đã không yêu cầu hủy PQTT như thông lệ mà chính bên thắng kiện (A) mới là người nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy PQTT. Trong đơn yêu cầu, A trình bày lý do yêu cầu Tòa án hủy PQTT là do trong phần QĐ của PQTT có ghi câu “Khi nào B có đủ điều kiện (thanh toán đủ) thì có quyền khởi kiện một vụ tranh chấp khác để yêu cầu A bàn giao BĐS cho B”. A cũng một lần nữa cho biết BĐS có liên quan đã được bán và bàn giao cho bên thứ ba nên không thể bàn giao cho B, dù cho PQTT trong tương lai có chấp nhận yêu cầu khởi kiện của B. Có lẽ vì lo sợ B sẽ khởi kiện mình ra Trọng tài trong tương lai theo PQTT nói trên và sẽ khiến A gặp rắc rối với bên thứ ba mà A đã chủ động nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy PQTT chăng? 

Căn cứ pháp luật mà Tòa án có thể dựa trên đó để giải quyết yêu cầu hủy PQTT trong các trường hợp nói trên là quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 68 LTTTM và khoản 4 Điều 3 BLDS.

 

3. Kinh nghiệm phòng tránh rủi ro PQTT bị hủy do liên quan đến bên thứ ba 

Rút kinh nghiệm qua vụ tranh chấp thứ nhất nêu trên, chúng ta có thể thấy, nếu HĐTT thận trọng hơn khi giải quyết tranh chấp liên quan đến một tài sản (bao gồm cả quyền tài sản), bằng cách yêu cầu các bên cho biết tài sản đó có được thế chấp, cho thuê hoặc có một giao dịch nào đó liên quan đến bên thứ ba hay không thì cũng có thể tránh được hoặc hạn chế được rủi ro PQTT bị hủy. 

Rút kinh nghiệm qua vụ tranh chấp thứ hai nêu trên, chúng ta có thể thấy, nếu HĐTT ra PQTT theo quan điểm của TTV 3 (không chấp nhận yêu cầu của B vì yêu cầu này không có căn cứ) thì sẽ không có vấn đề gì liên quan đến bên thứ ba và các bên sẽ không thể nêu lý do PQTT liên quan đến bên thứ ba để yêu cầu hủy PQTT. 

Còn trường hợp HĐTT ra PQTT theo quan điểm của TTV 1 thì mặc dù PQTT không đề cập đến quyền hoặc nghĩa vụ của bên thứ ba nhưng chắc chắn khi thi hành PQTT sẽ đụng chạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba vì BĐS có liên quan đã được bán và bàn giao cho bên thứ ba. Ở đây, có 2 khả năng có thể xảy ra: 

(i) PQTT bị Tòa án hủy theo yêu cầu của một bên vì lý do PQTT xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. 

(ii) PQTT không thể thi hành được do bên thứ ba không phải một bên trong vụ tranh chấp và không phải là bên phải thi hành PQTT (Cơ quan thi hành án dân sự sẽ từ chối cưỡng chế thi hành). 

Dù xảy ra trường hợp nào (PQTT bị hủy hay PQTT không thể thi hành được) thì đó cũng không phải là điều mà bên khởi kiện ra trọng tài và các TTV mong muốn. 

Nói tóm lại, để PQTT không bị hủy vì liên quan đến bên thứ ba, các HĐTT cần hết sức lưu ý, không chỉ tránh xác định trực tiếp quyền hoặc nghĩa vụ của bên thứ ba hoặc quyền, nghĩa vụ của một bên tranh chấp đối với bên thứ ba trong PQTT, mà còn phải loại trừ khả năng việc thi hành PQTT sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba như trong các ví dụ vừa nêu.

 

4. Hoàn thiện cơ chế hủy PQTT trong trường hợp PQTT xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng 

Khoản 1 Điều 68 LTTTM quy định: 

Tòa án xem xét việc hủy PQTT khi có đơn yêu cầu của một bên”. 

Đồng thời, trong toàn bộ LTTTM, không có một điều luật nào khác cho phép một bên thứ ba (ngoài các bên tranh chấp) có quyền yêu cầu hủy PQTT. 

Như vậy, trường hợp PQTT xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng (gọi chung là bên thứ ba) thì sẽ không có một cơ chế nào để hủy PQTT nếu như các bên tranh chấp không nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy PQTT. Trường hợp này có thể xảy ra khi PQTT chỉ gây thiệt hại cho bên thứ ba mà không gây thiệt hại cho các bên, hay nói cách khác là các bên đều cảm thấy thỏa đáng cho quyền lợi của mình và sẽ không có lợi khi yêu cầu hủy PQTT. 

Đây có thể xem là một thiếu sót rất lớn của LTTTM hiện hành, nếu không kịp thời sửa đổi, bổ sung thì trong tương lai có thể sẽ gặp phải trường hợp bên thứ ba bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp bởi một PQTT nhưng đành phải “cắn răng chịu đựng” vì không có cách nào hủy PQTT đó. 

Theo quan điểm đề xuất của tác giả, để khắc phục thiếu sót nói trên, LTTTM nên bổ sung quy định cho phép bên thứ ba là tổ chức, cá nhân có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi một PQTT hoặc cơ quan, tổ chức quản lý lĩnh vực có liên quan hoặc Viện kiểm sát (nếu PQTT xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng) có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy PQTT trong các trường hợp này. 

 

Kết luận 

Trong khi giới hạn thẩm quyền của HĐTT đối với bên thứ ba là một hạn chế không thể khắc phục được của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì việc có thể làm được chính là các TTV cần nhận diện được các trường hợp PQTT liên quan đến bên thứ ba có khả năng bị Tòa án hủy hoặc khả năng PQTT không thi hành được để soạn thảo PQTT, từ phần NĐ đến phần QĐ, sao cho rủi ro PQTT bị hủy hoặc không thi hành được vì liên quan đến bên thứ ba sẽ bị loại trừ hoặc ít ra cũng được giảm thiểu đến mức thấp nhất. 

 
*** Bài viết này chỉ thể hiện những ý kiến và quan điểm của chuyên gia độc lập và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) hay cơ quan, tổ chức nào. 

__________

Hội thảo chuyên đề "Thi hành phán quyết trọng tài và các vấn đề phát sinh liên quan đến bên thứ ba" là sự kiện thứ hai thuộc Chuỗi hoạt động Diễn đàn Khoa học về Trọng tài - Hòa giải 2024 (AMS 2024), được triển khai bởi VIAC cùng khối các trường Đại học đào tạo Luật trên Thành phố Hồ Chí Minh, kéo dài từ ngày 22/3/2024 đến ngày 11/4/2024. Thông tin chi tiết về AMS 2024, vui lòng xem tại ĐÂY 

Tin liên quan

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI